2011年4月23日 星期六

VĂN KHẤN GIẢI HẠN TAM TAI

VĂN KHẤN GIẢI HẠN TAM TAI
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT !
NAM-MÔ HỮU THIÊN CHÍ TÔN KIM QUYẾT NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ !
KÍNH THỈNH : MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG....(A) TAM TAI....(B) ÁCH THẦN QUANG!
Hôm nay là ngày.....tháng.....năm....
Con tên họ là.......
Hiện ngụ tại.........
thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật các thứ cúng dâng giải hạn Tam Tai , sắp bày nơi đây , kính thỉnh Mông Long Đại Tướng.....(A) Tam Tai.....(B) Ách Thần Quang giá đáo đàn tràng , chứng minh thọ hưởng. Ủng hộ cho con tai nạn toàn tiêu , nguyên niên Phước Thọ , Xuân đa kiết khánh , Hạ bảo bình an , Thu tống Tam Tai , Đông nghinh bá phước ! Thượng hưởng !

( Vái 3 lần,rót trà 3 lần,rót rượu 3 lần,3 lần lạy/mỗi lần 3 lạy,rồi hóa vàng bạc & đồ thế ).
(A) : Là tên các vị Thần ứng theo từng năm như sau :
_ Năm Tý : Thần ĐỊA VONG , ngày 22 , lạy về hướng BẮC.
_ Năm Sửu : ĐỊA HÌNH 14 Đông Bắc
_ Năm Dần : THIÊN LINH Rằm Đông Bắc
_ Năm Mẹo : THIÊN HÌNH 14 ĐÔNG
_ Năm Thìn : THIÊN KIẾP 13 Đông Nam
_ Năm Tị : HẮC SÁT 11 Đông Nam
_ Năm Ngọ : ÂM MƯU 20 NAM
_ Năm Mùi : BẠCH SÁT 8 Tây Nam
_ Năm Thân : NHƠN HOÀNG 8 Tây Nam
_ Năm Dậu : THIÊN HỌA 7 TÂY
_ Năm Tuất : ĐỊA TAI 6 Tây Bắc
_ Năm Hợi : ĐỊA BẠI 21 Tây Bắc

(B) : Là chỉ Ngũ Hành của năm đó ứng với :
KIM : Thân_Dậu.
Mộc : Dần_Mẹo
THỦY : Hợi_Tý.
HỎA : Tị_Ngọ
THỔ : Thìn_Tuất_Sửu_Mùi.

Ví dụ như năm nay là năm hợi , ta sẽ vái " Mông Long Đại Tướng Địa Bại Tam Tai Thủy Ách Thần Quang ".
Chúc các anh chị , các bạn giải tai , giải nạn và gặp nhiều an lành nhé !
Vì NCD đã tham gia chủ đề PT nên "trót thì phải trét" , phái mở tiếp topic này , hầu giúp các anh chị , các bạn có những bài văn khấn vái , dùng trong khoa PT , và cả 1 số bài văn khấn trong các dịp tế lễ vậy.
Trước tiên , ta phải xác định các tuổi nào vướng Tam Tai năm nào đã nhé !
_ Các tuổi Thân_Tý_Thìn : Tam tai 3 năm liên tiếp Dần_Mẹo_Thìn.
_ Các tuổi Tị_Dậu_Sửu : .............................. Hợi_Tý_Sửu.
_ Các tuổi Dần_Ngọ_Tuất : .............................. Thân_Dậu_Tuất.
_ Các tuổi Hợi_Mẹo_Mùi : ............................... Tị_Ngọ_Mùi.
Ai cũng mắc hạn này , cứ 3 năm liên tiếp như thế , hết 3 năm đến 9 năm sau lại bị hạn này nữa vậy. Bị hạn này nhẹ thì tai tiếng, mất việc làm , làm ăn thất bát , cọ quẹt xe cộ , nặng thì tán gia bại sản ,mất mạng. Nên khi mắc hạn Tam Tai , người ta hay cúng giải. Khi có điều kiện ở gần các Chùa mà các thầy ở đó có Lỗ Ban_ 1 loại Bùa Chú _ thì ta có thể nhờ quý thầy ấy cúng giải dùm. Vì sao NCD không bảo đến các thầy LB chuyên nghiệp , mà bảo đến các Tự viện có biết LB ? Xin thưa , vì các thầy LB ở ngoài cũng có người tốt người xấu , NCD e quý vị bị "vẽ vời" rồi tốn kém , thay vì vậy , đến Chùa sẽ an tâm hơn. Không phải thầy LB nào ở ngoài cũng "vẽ vời" , nhưng do 1 số người làm ảnh hưởng chung , "con sâu làm rầu nồi canh " mà.
Nếu không , quý vị có thể tự mình cúng giải theo cách sau đây : Chuẩn bị đồ cúng sẵn , chiều chạng vạng , đem tớingã ba đường nào mà mình hiếm khi đi qua đó _ ít nhất là trong 3 năm này _bày ra vái cúng xong, đi vòng đường khác về.
Lễ vật chuẫn bị gồm có : 3 chung nước , 1 nhúm muối gạo , 3 miếng trầu cau , 1 khúc dây lưng quần cắt làm 3 đoạn , 3 điếu thuốc hút , 1 bộ Tam Sanh ( 1 trứng hột vịt luộc, 1 con tôm luộc , 1 miếng thịt ba rọi luộc ) , 3 chung rượu , 1 ít tóc rối của người mắc Tam Tai , 3 đồng bạc cắc gói lại bằng giấy đỏ , 1 cặp đèn cầy , giấy vàng bạc ,bông ,trái cây(không cần nhiều) , 1 bộ đồ thế ( đến các tiệm vàng mã , mua đồ này , nam nữ tùy theo người mắc Tam Tai ) , và lẽ dĩ nhiên còn 1 thứ không thể thiếu là 3 cây nhang.
Sau khi vái cúng và rót trà , rượu đủ 3 lần , đốt giấy vàng bạc, đồ thế rồi bỏ các thứ cúng đó , vòng đường khác về.
Có điều này rất quan trọng nữa là : Không phải ngay nào cúng cũng được , mỗi năm ứng với 1 vị Thần , và vị Thần này giáng hạ trần gian có ngày , có hướng. Khi vái cúng phải đúng ngày này (tháng nào cũng được) và lạy về hướng này.


VĂN KHẤN BỒI HOÀN ĐỊA MẠCH.
NAM -MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT !
KÍNH LẠY :
_ ĐỨC U MINH GIÁO CHỦ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.
_ HOÀNG THIÊN, HẬU THỔ chư vị TÔN THẦN.
_ CÁC NGÀI NGŨ PHƯƠNG , NGŨ ĐẾ , NGŨ NHẠC THÁNH ĐẾ , NHỊ THẬP BÁT
TÚ TINH QUÂN , ĐỊA MẠCH THẦN QUAN ,THANH LONG -BẠCH HỔ TÔN THẦN
_ cùng các ĐẠI KIẾT TINH......,.... ĐẠI KỲ MÔN TRẤN THỦ.....PHƯƠNG.
Hôm nay là ngày.....tháng.....năm......
Tín chủ con là........ ngụ tại........
thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật xin bồi hoàn địa mạch. Do trước đây tâm tính mờ mịt , thần trí u mê ,........( nguyên nhân ) đã làm tổn thương LONG MẠCH , mạo phạm LONG UY , ảnh hưởng đến Nguyên Khí vùng đất này. Nay muốn cho phong thổ an hòa , gia đình chúng con người người được chữ bình an
tiêu tai giải họa , nên nay TRƯỢNG UY ĐẠI SĨ , nương đức Tôn Thần , cung thỉnh triển lộng Thần Oai nối giòng Long Khí. Cúi xin liệt vị Tôn Thần chứng minh tâm thành , giá đáo đàn tràng thụ hưởng lễ vật. Tín chủ con xin chí thành cúng dâng Ngài U minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát , Ngài Kiên Lao Địa Thần Bố Tát , Các Ngài Ngũ Phương - Ngũ Đế -Hậu Thổ Nguyên Quân -Sơn Nhạc Đế Quân -Đương Phương Thổ Địa -Thổ Phủ Thần Kỳ -Nhị Thập Bát Tú Tinh Quân , Nhị Thập Tứ Long Mạch Thần Quan ,Nhị Thập Tứ Địa Mạch Thấn Quan , Nhị Thập Tứ Sơn Hướng Địa Mạch Long Thần ,Thanh Long -Bạch Hổ Tôn Thần , Thổ Bá-Thổ Hầu-Thổ Mạnh- Thổ Trọng-Thổ Quý Thấn Quan , Thổ Mẫu -Thổ Thổ Phụ -Thổ Tử-Thổ Tôn -Thổ Tướng -Thổ Gia Thấn Quan , Thổ Cấn-Thổ Khôn, Thổ Kỳ Ngũ Phương -Bát Quái liệt vị Tôn Thần , Kim niên Đương cai Hành khiển Thái Tuế chí đức Tôn Thần , Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương cùng tất cả chư vị ĐẠI KIẾT TINH hiện Tọa Trấn nơi đây. Cúi xin chư vị Tôn Thần thương xót tín chủ , nhận lời thỉnh cầu , giáng phó án tiền ,trợ cho Phong Thổ phì nhiêu , Khí Mạch sung vượng , Tài Khí hưng long , Nhân Đinh an lạc , Sở nguyện tòng tâm.
MÔ PHẬT !

VĂN KHẤN LỄ ĐỘNG THỔ
NAM-MÔ A-DI-ĐẢ PHẬT !
KÍNH LẠY :
_ HOÀNG THIÊN HẬU THỔCHƯ VỊ TÔN THẦN.
_ QUAN ĐƯƠNG NIÊN......(A).
_ NGÀI BẢN CẢNH THÀNH HOÀNGCHƯ VỊ ĐẠI VƯƠNG.
_ NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG MẠCH TÔN THẦN , CÁC NGÀI TÔN THẦN CAI QUẢN TRONG KHU VỰC NÀY.
_ CÁC NGÀI........(B)....CHƯ VỊ ĐẠI KIẾT TINH.
Hôm nay là ngày.......tháng........năm.........
Tín chủ con là.........
Hiện ngụ tại............
Thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày ra trước án. Ví tín chủ conkhởi tạo (nếu "cất nóc" thì đọc là "cất nóc" , nếu "xây cổng" thì đọc là "xây cổng" ,nếu tu sửa phương nào thì đọc rõ "tu sửa phương.." đó...)căn nhà ở địa chỉ.......ngôi Dương Cơ trụ trạch ( nếu là phần mộ thì đọc là " ngôi Âm Cơ mộ phần " )để làm nơi cư ngụ cho gia đình con cháu ( => để làm nơi an ổn cho vong linh....). Nay chọn được ngày lành tháng tốt , kính cáo chư vị Linh Thần , cúi mong soi xét và cho phép đượcđộng Thổ( "cất nóc" , " xây cổng " , " tu sửa phương..." ). Nhân có lễ vật tịnh tài dâng cúng bày trên Linh Án , tín chủ con thành tâm kính mời :
Ngài Kim Niên Đương Cai Thái Tuế Chí Đức Tôn Thần.
Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương.
Ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa.
Ngài Định Phúc Táo Quân, các Ngài Địa Chúa Long Mạch Tôn Thần và tất cả các vị Thần Linh cai quản trong khu vực này.
Cúi xin giáng lâm trước án chứng minh thọ hưởng. Và lai độ cho chúng con khởi công suôn sẽ ,công việc tiến hành trôi chảy,người người đều đặng bình an ,vạn sự hanh thông , sở cầu tất ứng.
Tín chủ chúng con lại kính mời các vị hương linh khuất mặt lần khuất quanh đây , các linh hồn chiến sĩ trận vong vì nước , các oan hồn uổng tử không nơi nương tựa , xin cùng tới đây thụ hưởng lễ vật , độ cho tín chủ chúng tôi hưng công sở thành , kiến tạo như ý , từ đây hoạn lộ hanh thông , Đông thành Tây tựu , trú sở cát tường. MÔ PHẬT !

CÁC ĐIỀU CẦN BIẾT KHI NHẬP TRẠCH ( DỌN VÀO NHÀ MỚI ):
Nếu là 1 gia đình có vợ chồng con cái thì đầu tiên là vợ gia chủ cầm 1 cái gương tròn đem vào nhà trước( mặt gương soi vào nhà ) , kế đến là gia chủ tự tay bưng bát nhang thờ Tổ Tiên , rồi lần lượt các người trong nhà mới đem vào Bếp lửa ( tốt nhất là Bếp còn đang cháy đỏ từ nhà cũ đem tới ) , chăn nệm , gạo , nước......vv...
Nếu nhà vắng đàn ông thì người mẹ bưng bát nhang thờ Tổ Tiên vào trước , kế đến là con cái lần lượt mang Bếp , gạo , nước...vv.....
Chuyển đồ đạc vào nhà trước , dọn đồ cúng sau.
Không ai được đi tay không vào nhà. Tuồi Dần không được phụ dọn . Phụ nữ có thai không được phụ dọn ( nếu muốn phụ , thì mua 1 cây chổi mới , dùng chổi quét qua 1 lượt các đồ vật thì không sao). Trong giờ tốt , gia chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang , tài sản quý giá cất vào tủ.
Lễ vật để đi Tân Gia mà người ta quý và có ý nghĩa tốt đẹp , mang lại điều lành cho gia chủ chính là : 1 nồi cơm điện ( theo quan niệm bây giờ cho tiện ) , hay 1 bộ soong nồi ( bởi ngày xưa chưa có đồ điện mà ). Đây là những món quà mang ý nghĩa sung túc, no đủ , nên ta hãy đem tặng cho người thân , bạn hữu thân tình khi họ Tân Gia nhé !


CÁC LỄ VẬT CÚNG :
Khi cúng động thổ , quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ) , bông tươi , nhang đèn ,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc , 1 con tôm luộc , 1 trứng vịt luộc ) , xôi thịt , 3 miếng trầu cau ( đã têm ) , giấy vàng bạc , 1 dĩa muối gạo , 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.
Sau khi cúng xong , đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp , nơi thờ cúng Táo Quân.
Nhớ mỗi kỳ đổ mái -đổ thêm tầng đều phải sắm lễ cúng vái.


VĂN KHẤN NHẬP TRẠCH
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT !
KÍNH LẠY :
_ HOÀNG THIÊN HẬU THỔCHƯ VỊ TÔN THẦN.
_ CÁC NGÀI BẢN XỨ THẦN LINH THỔ ĐỊA , BẢN GIA TÁO QUÂN cùng CÁC
THẦN LINH CAI QUẢN TRONG KHU VỰC NÀY.
Hôm nay là ngày......tháng......năm......
Tín chủ chúng con là.........
Hiện ngụ tại.........
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật các thứ cúng dâng bày ra trước án, kính cẩn tâu trình : Nay gia đình chúng con công trình viên mãn , chọn được ngày lành tháng tốt dọn đến cư ngụ , phần sài nhóm lửa , kính lễ khánh hạ.Cúi xin chư vị Linh thần cho phép chúng con, được rước vong linh Tiên Tổ về đây thờ phụng để tỏ tấc lòng hiếu thuận của con cháu. Nguyện xin chư vị tâm thành chứng minh , độ cho chúng con từ đây gia đạo an khương , làm ăn thuận lợi , sanh ý hưng long , đinh tài lưỡng vượng.
Tín chủ lại mời các vị Hương Linh phảng phất trong khu vực này , các Linh Hồn Chiến sĩ trận vong , các oan hồn uổng tử không nơi nương tựa quanh đây xin cùng tề tựu hâm hưởng lễ vật. Tín chủ thành tâm lễ tạ Chư vị Hương Linh bấy lâu đã hộ trì tín chủ khởi công thuận lợi , cho đến nay đã hoàn tất thi công , tín chủ lại xin các vị tiếp tục phù trì tìn chủ từ đây ăn nên làm ra , gia đạo thuận hòa , người người an lạc , nạn tiêu tai giảm , toàn gia hưng thịnh.
MÔ PHẬT !


VĂN KHẤN GIA TIÊN KHI NHẬP TRẠCH
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT !
LIỆT TỔ LIỆT TÔNG...(ghi họ tộc chỗ này)GIA TẠI THƯỢNG
CỬU HUYỀN THẤT TỔ NỘI NGOẠI.....GIA TIÊN LINH.

Hôm nay là ngày......tháng......năm......
Gia đình chúng con dọn đến đây là..........................(ghi địa chỉ)
Hôm nay chúng con thiết lập hương án , sắm sanh phẩm vật , trước linh vị kính trình các Cụ tổ Tiên nội ngoại 2 bên : nhờ hồng phúc Tổ Tiên , nhờ Âm Đức cha mẹ , chúng con đã tạo được ngôi gia. Nay hoàn tất thi công , chúng con chọn được ngày lành tháng tốt để di cư nhập trạch , kính rước chư Hương linh Tiên Tổ về đây để chúng con sớm hôm hương khói tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin , Ông Bà Tổ tiên nội ngoại 2 bên thương xót con cháu , chứng giám lòng thành giáng lâm linh án thụ hưởng lễ vật. Độ cho chúng con phước lộc song tu , gia đạo hưng long , xuất nhập bình an , lộc tài thạnh vượng.
Cúi mong Anh linh Tiên Tổ chứng giám , thọ cảm ân sâu. Kính cáo.


VÁI KHAI TRƯƠNG
NAM- MÔ A-DI -ĐÀ PHẬT !
Kính lạy : _ Quan Đương niên Hành khiển Thái Tuế chí đức Tôn thần
_ Các Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương
_ Các Ngài Ngũ Phương , Ngũ Thổ , Long Mạch , Tài Thần , Định Phúc Táo Quân chư vị tôn thần.
_ Các Thần Linh cai quản ở trong khu vực này.
Hôm nay là ngày......tháng.......năm......
Tín chủ con là......... Sinh niên.........
hiện ngụ tại.............
thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật , các thứ cúng dâng bày ra trước án. Vì tín chủ con có xây cất ( hoặc " thuê được ") 1 ngôi hàng ở tại xứ này là.....( ghi địa chỉ nơi đó ) ( nếu là cơ quan công xưởng thì khấn là : " Tín chủ con là Giám Đốc hay Thủ Trưởng , cùng toàn thể nhân viên công ty ") nay muốn khai trương khởi đầu việc kinh doanh ( hoặc sản xuất ) phục vụ nhân sinh mại mãi tài vật giúp cho sinh hoạt. Do đó , chứng con chọn được ngày lành tháng tốt sắm sanh lễ vật , cáo yết Tôn Thần , dâng cúng Bách Linh , cúi mong soi xét. Chúng con kính mời Quan Đương niên , Quan Đương Cảnh , Quan Thần linh Thổ Địa , Định Phúc Táo Quân , cùng các Ngài Địa Chúa Long Mạch , và tất cả Thần Linh cai quản ở trong khu vực này.
Cúi xin : Thương xót tín chủ giáng lâm trước án , chứng giám lòng thánh thụ hưởng lễ vật , độ cho chúng con buôn bán hanh thông , làm ăn thuận lợi , lộc tài vượng tiến , nhân sự bình an. Bốn mùa không hạn ách tai ương , tám tiết có điềm lành tiếp ứng , cầu gì cũng được , nguyện gì cũng thành.
Tín chủ lại mời các vị Tiền chủ , Hậu chủ , cùng chư Hương Linh y thảo phụ mộc phảng phất ở trong khu vực này , xin hãy tới đây chiêm ngưỡng Tôn Thần , thụ hưởng lễ vật , phù trì tín chủ vận đáo hanh xương , tài lộc như gió mây tập hội.
Dãi tấm lòng thành , cúi xin chứng giám.


Ý NGHĨA CỦA VÁI LẠY
*Ý nghĩa của 2 Lạy và 2 Vái
Dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em,
v.v., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
* Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
* Ý nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
* Ý nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.


VĂN KHẤN THẦN TÀI


Nam mô a di Đà Phật! (03 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật,Chư phật mười phương.

- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngày Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.

- Con kính lạy Thần tài vị tiền.

- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Tín chủ con là………………………………………………………….

Ngụ tại…………………………………………………………………...

Hôm nay là ngày…….tháng…….năm……………………………….

Tôi chủ thành sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị.

Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (03 lần)


Thực trạng nghi lễ PG hiện nay: Lễ rước vong lên chùa - Phần 1
Nhìn chung, ở vùng nông thôn, nếp sinh hoạt tín ngưỡng này diễn ra khá chi tiết, đầy đủ theo tiến trình của một khóa lễ cầu siêu. Tuy nhiên tại các thành phố lớn, người ta thực hiện việc rước vong lên chùa khá ngắn gọn, đôi khi giản lược hoặc thay đổi thứ tự một số nội dung của khóa lễ.
Trong lịch sử nước ta từ đầu Công nguyên cho đến ngày nay, Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa - xã hội. Người Việt Nam từ trẻ đến già đã quá quen với câu niệm Nam mô A Di Đà Phật. Trong văn học cũng như trong cuộc sống thường nhật, người ta hay nhắc tới hình ảnh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn. Chùa Việt Nam mang màu sắc Tịnh độ đậm nét. Đó là kết quả của một quá trình chọn lọc, trải qua nhiều thế hệ nhà tu hành cũng như quần chúng nhân dân. Phật giáo đi vào cuộc sống, vào tâm thức của người Việt như là một thành phần không thể tách rời.
Tinh thần giải thoát trong Phật giáo cũng giúp con người thanh lọc thân tâm, điều chỉnh hành vi đạo đức để sống hòa nhập với cộng đồng. Lời cảnh bảo về nghiệp báo luân hồi có tác dụng như một chiếc phanh hãm những hành động thái quá, cực đoan. Bất kỳ người Việt Nam nào cũng biết tới những câu thành ngữ “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”… cùng triết lý về nghiệp báo luân hồi của đạo Phật. Điều này ít nhiều có tác dụng cảnh tỉnh, giúp cho nhiều người dừng lại bên bờ cái thiện giữa ranh giới mong manh của thiện ác, chính tà.
Ở nước ta, từ cách đây hơn hai nghìn năm đã chứng kiến sự du nhập của Phật giáo. Để nhanh chóng hòa nhập vào đời sống dân cư, Phật giáo đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với tâm lý, ý thức của người Việt. Trải qua gần mười thế kỷ phát triển, sang đến đầu thế kỷ X, trong xã hội xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng nguyên: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cùng tồn tại. Trên nền tảng tư tưởng của Phật giáo, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa, nhiều nghi lễ là sự kết hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và truyền thống dân tộc đã ra đời, góp phần tạo nên sự phong phú cho kho tàng văn hóa Việt Nam.
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng:
Tôn giáo dân gian là cách hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu là các hình thức tôn giáo dân tộc được lưu truyền lại từ xa xưa, gần gũi trong cộng đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương, các ngày lễ với những rước sách, nhảy múa, thậm chí các hình thức bói toán, tướng số…(Đặng Nghiêm Vạn, 2001: 71.)
Còn theo tác giả Nguyễn Duy Hinh, trong bài viết “Về hai đặc điểm của Phật giáo Việt Nam”:Tính dân gian tập trung trong tư tưởng Từ Bi của Phật giáo diễn đạt dân gian là Cứu Khổ Cứu Nạn. (Nguyễn Duy Hinh, 2007: 261)
Ở đây, nói đến tính dân gian của Phật giáo tức là nói đến những biểu hiện mang tính bình dân, chú trọng đến những hoạt động nghi lễ không theo lối chính thống nhằm giải quyết nhu cầu cuộc sống thực tại của tín đồ. Người ta tiếp cận tôn giáo, cụ thể là Phật giáo không xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, thực hành theo giáo lý để đạt tới giác ngộ. Thay vào đó, các tín đồ bao gồm cả hai phía là người đại diện cho Phật giáo - các tăng ni sư xuất gia cũng như người tiếp nhận - phật tử tại gia hầu như chỉ quan tâm tới hoạt động nghi lễ nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống thực tại. Thỏa mãn nhu cầu ấy, thực chất là sự bù đắp những thiếu hụt về tinh thần mà đời sống thường ngày mang lại cho chúng ta. Phật giáo, bằng hành động của mình (chủ yếu là các hình thức mang tính nghi thức, nghi lễ) cầu xin Đức Phật và những sứ giả của ngài ra tay cứu độ chúng sinh.
Hoạt động nghi lễ được đề cập trong bài viết là lễ “rước vong lên chùa”. Trước đây, nghi thức rước vong lên chùa chỉ dành cho những người không có con cháu. Những người này lo sợ rằng một khi mình chết đi, không người thờ phụng sẽ trở thành ma đói lang thang. Vì vậy, họ cúng tài sản của mình cho nhà chùa với nguyện vọng rằng sau khi chết đi, vong linh được nương nhờ chốn cửa Phật, hàng năm vào dịp cúng giỗ sẽ do nhà chùa đứng ra tổ chức để họ được an lòng nơi chín suối. Vong linh của họ sẽ được no ấm, không phải chịu cảnh đói khát, lang thang.
Trải qua nhiều thế hệ, quan niệm này tiếp tục được duy trì. Ngoại trừ cộng đồng người Công giáo hoặc những tộc người thiểu số, thông thường, những người không có con cháu trước khi mất vẫn bày tỏ tâm nguyện sau này được gửi lên chùa. Các gia đình người Việt sinh sống ở vùng trung du, đồng bằng, nếu trong nhà có người thân ở hoàn cảnh như vậy cũng tiến hành đưa vong linh ấy gửi vào chốn chùa chiền, như một cách bày tỏ sự báo hiếu, báo ân với người đã mất.
Tuy nhiên, trong khoảng vài chục năm trở lại đây, phong tục này đã có sự biến đổi khá rõ. Ngày trước, hiện tượng gia đình có người mất đưa vong lên chùa thường chỉ xuất hiện ở vùng nông thôn thì nay, nó trở nên phổ biến ở các thành phố. Quan niệm về những trường hợp vong linh nào nên rước lên chùa cũng thay đổi. Người ta tin rằng nếu trong gia đình của mình có người mất, dù đó là cha mẹ, anh chị hay con cháu của mình, có đầy đủ người cúng giỗ thì vẫn nên gửi lên chùa. Vong linh này được nương nhờ cửa Phật sẽ mang lại sự tốt lành cho người mất và cả người đang sống. Đối với người mất là về nơi cửa Phật tu học để được siêu thoát về cõi Tây phương cực lạc hoặc nếu có đầu thai kiếp khác thì cũng làm người, có đời sống tốt lành hơn. Đối với gia đình người đã mất thì đó là sự yên tâm rằng người chết sẽ không còn vương vấn điều gì ở cõi trần để trở về quấy nhiễu con cháu, ngược lại, sẽ về phù hộ cho gia đình gặp nhiều niềm vui, hạnh phúc, an khang.
Khi gia đình có người mất, trong vòng 35 đến 49 ngày, gia đình thực hiện lễ cầu siêu, đưa vong lên chùa. Sau lễ cầu siêu, gia đình được phép đặt ở ngôi chùa mà mình đến gửi vong linh một bát hương và bài vị của người đã mất. Hàng tháng vào ngày rằm, mùng một, con cháu, họ hàng sẽ lên chùa đi lễ, thắp hương cho vong linh người thân của mình.
Nhìn chung, ở vùng nông thôn, nếp sinh hoạt tín ngưỡng này diễn ra khá chi tiết, đầy đủ theo tiến trình của một khóa lễ cầu siêu. Tùy theo điều kiện kinh tế của gia đình mà thực hiện khóa lễ cơ bản hay khóa lễ hoàn chỉnh cầu kì, phức tạp. Tuy nhiên tại các thành phố lớn, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó bao gồm cả quan niệm của cư dân đô thị, người ta thực hiện việc rước vong lên chùa khá ngắn gọn, đôi khi giản lược hoặc thay đổi thứ tự một số nội dung của khóa lễ. Xét trên khía cạnh nào đó, khóa lễ này được nhìn nhận như là một hoạt động mang tính dịch vụ của Phật giáo dân gian nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình, dòng họ.
Chúng tôi đã tiến hành lựa chọn vùng nội thành của Thủ đô Hà Nội làm địa bàn để khảo sát tư liệu. Việc lựa chọn vùng khảo sát như vậy đảm bảo yêu cầu mà đề tài đặt ra, có sự tham khảo về những thông tin liên quan tại các địa phương lân cận.
Trong vùng nội thành của Thủ đô Hà Nội hiện nay có khoảng hơn 100 ngôi chùa lớn nhỏ. Một điều ai cũng nhận thấy, đó là các nghi lễ Phật giáo cũng như hoạt động tâm linh diễn ra ở tất cả các ngôi chùa, nhưng mức độ thường xuyên chỉ tập trung tại một số chùa tiêu biểu như: chùa Quán Sứ (phố Quán Sứ), chùa Phúc Khánh (phố Tây Sơn), chùa Hà (phố Chùa Hà, quận Cầu Giấy), chùa Cót (Yên Hòa, Cầu Giấy)… Đi sâu tìm hiểu vấn đề này chúng tôi nhận thấy, theo quan niệm của người dân, mỗi ngôi chùa nổi tiếng về một loại hình dịch vụ tâm linh điển hình, ví dụ như chùa Hà gắn liền với cầu duyên, chùa Cót gắn liền với lễ giải oan cắt kết, cắt tiền duyên,...
Trong khoảng hơn mười năm gần đây, chùa Phúc Khánh ở số 382 phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội đã trở thành một tâm điểm của tín đồ, phật tử từ khắp nơi, chủ yếu là người dân Hà Nội và các tỉnh miền Bắc đến tham dự các nghi lễ Phật giáo. Đối tượng người hành lễ tại ngôi chùa này tập trung chủ yếu vào giới trí thức cũng như các quan chức từ trung ương tới địa phương. Loại hình sinh hoạt tâm linh tiêu biểu của chùa Phúc Khánh là lễ cầu an đầu năm (tổ chức vào ngày rằm tháng giêng), lễ cầu siêu và lễ dâng sao giải hạn.
Dựa trên nội dung tìm hiểu chính của đề tài là những vấn đề liên quan đến khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa, chúng tôi chọn chùa Phúc Khánh làm địa điểm cụ thể để tiến hành khảo sát, nghiên cứu.
Thông qua việc trình bày tất cả nội dung liên quan từ sự chuẩn bị cho đến tiến trình và kết quả (chủ yếu là theo quan niệm của nhân dân) của một khóa lễ cầu siêu - rước vong được tổ chức tại chùa Phúc Khánh, chúng tôi hi vọng có thể bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá mang tính cá nhân về những chuyển biến trong đời sống tâm linh của cư dân tại các vùng đô thị hiện nay.
Bởi vì cầu siêu là một khóa lễ cơ bản của Phật giáo dân gian Việt Nam. Nó là cách thức để người sống bày tỏ tấm lòng báo hiếu, báo ân đối với người đã khuất; đồng thời là giải pháp mà Phật giáo đưa ra nhằm giáo dục, khuyên răn và thu hút tín đồ từ trong quần chúng nhân dân.
Việc tìm hiểu về khóa lễ cầu siêu từ trước tới nay thường chỉ diễn ra trong giới tu hành. Đó là những cuốn sách do các nhà sư viết nên, chủ yếu mang tính chất giảng giải sơ lược và hướng dẫn việc thực hiện khóa lễ để thế hệ sau theo đó học tập và thực hiện.
Đối với giới nghiên cứu là người tại gia, trong vài năm gần đây, người ta bắt đầu quan tâm, tìm hiểu về vấn đề này nhưng nói chung, tùy theo mục đích của cá nhân các tác giả, họ khảo sát khóa lễ cầu siêu trên mỗi phương diện khác nhau: nhìn nhận khóa lễ như là một hoạt động mang tính dịch vụ của Phật giáo (Nguyễn Thị Minh Ngọc, 2008) hoặc tìm hiểu về âm nhạc được sử dụng trong khóa lễ…
Như đã trình bày, chúng tôi tìm hiểu về khóa lễ cầu siêu dưới góc độ nghi lễ. Nói một cách cụ thể hơn, chúng tôi coi đây là một hoạt động vừa mang tính chất nghi lễ, chứa đựng trong nó những yếu tố Phật giáo, vừa là biểu hiện của quan niệm dân gian đang tồn tại và tiếp tục được duy trì khá rõ nét trong đời sống tâm linh ở nhiều nơi, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Nhịp sống của xã hội hiện đại, đặc biệt là ở đô thị đã có những tác động mạnh mẽ đối với đời sống tâm linh của người dân. Nếu như trước đây người ta rất chú trọng đến việc phải thành tâm kính lễ đối với những sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng thì hiện nay, sự quan tâm đó chỉ dừng lại với một mức độ nào đó. Họ vẫn tổ chức, tham gia, thậm chí còn với số lượng ngày một đông đảo hơn; nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp, có thể thấy tính chất qua loa, đại khái biểu hiện khá rõ ràng. Một nghi lễ Phật giáo thông thường bao gồm hai đối tượng cơ bản: người hướng dẫn và thực hiện (phía nhà chùa) và người tiến hành, tham gia (phía gia đình) thì cả hai bên đều không còn coi trọng ý nghĩa của những hoạt động mà họ đang làm. Đó là những hiện tượng đang diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi, trong đó Thủ đô Hà Nội nói chung, chùa Phúc Khánh nói riêng cần phải được thừa nhận.
Quan niệm của các nhà sư - người thực hành nghi lễ và các gia đình - người tham gia nghi lễ về các sinh hoạt mang tính chất tôn giáo dân gian này như thế nào? Những hoạt động nghi lễ mà họ đã và đang thực hiện có thật sự mang lại hiệu quả như họ mong muốn hay không? Những việc làm cụ thể của họ liệu có ảnh hưởng gì tới các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc? Qua đây, chúng tôi bước đầu đưa ra cái nhìn có tính khái quát về những chuyển biến trong đời sống tâm linh của người dân tại các vùng đô thị hiện nay, cụ thể là trường hợp Thủ đô Hà Nội.
Với phương pháp quan sát - tham dự kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu của chúng tôi tại địa điểm khảo sát là chùa Phúc Khánh trong thời gian từ ngày 01 đến ngày 31 tháng 03 năm 2009.
Đặc điểm của khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa tại chùa Phúc Khánh là không nhất thiết phải tiến hành vào đúng ngày thứ 49 kể từ khi gia đình có người mất. Khóa lễ này được tổ chức theo hình thức tập trung nhiều gia đình (theo danh sách đăng kí từ trước) vào ngày chủ nhật hàng tuần. Trong khoảng thời gian từ ngày 01 đến ngày 31 tháng 03 năm 2009, tại chùa Phúc Khánh đã diễn ra 5 khóa lễ cầu siêu. Ở đây xin tập trung phân tích cụ thể về nghi thức và đối tượng của 2 trong 5 khóa lễ đó (khóa lễ tổ chức vào ngày 01 tháng 03 năm 2009 và khóa lễ tổ chức vào ngày 29 tháng 03 năm 2009).
Dựa trên những thông tin thu nhận được, chúng tôi đã tiến hành phương pháp so sánh - đối chiếu và phương pháp phân tích - tổng hợp để có cái nhìn chi tiết hơn về khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa. (Còn tiếp)
Thực trạng nghi lễ PG hiện nay: Lễ rước vong lên chùa - Phần 2
Theo quan niệm của Phật giáo, ngày thứ 49 là ngày định nghiệp, sẽ quyết định xem vong linh đó đi vào cảnh giới nào. Trong một số trường hợp, có thể có những vong linh không phải chờ làm lễ cầu siêu thì mới siêu thoát, mà tự vong linh ấy đã siêu thoát rồi.
Vài nét về chùa Phúc Khánh
Chùa Phúc Khánh còn có tên khác là chùa Sở. Địa chỉ hiện nay của ngôi chùa là số 382 phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội.
Truyền thuyết kể lại rằng vào cuối thời Trần, việc mở mang vùng ngoại vi thành Thăng Long được tiến hành, trên nền đất làng Sở người dân cho xây dựng một ngôi chùa nhỏ làm nơi thờ Phật. Sang đến thời Lê sơ, chùa Sở trở thành một trường học, đào tạo tăng ni, phật tử. Vai trò của tổ đình Phúc Khánh tiếp tục được duy trì cho tới khi người ta dựng và chuyển lớp học về chùa Quán Sứ.
Bài minh trên quả chuông còn lại trong chùa ghi lại rằng, vào năm 1776, chùa Sở nằm trong trại Thịnh Quang bỗng nhiên gặp cơn binh hỏa, phật đài, tịnh xá, nền móng đổ nát. Có vị tăng đồ của chùa Trấn Quốc đi qua, được dân thôn ái mộ mời ở lại để trụ trì. Dân đã bỏ sức, cúng tiền, khuyến cáo thập phương hợp sức xây lại chùa..
Tam quan chùa Sở được làm kiểu hai tầng, cửa giữa lớn, cửa bên nhỏ hơn, phía bên trên làm kiểu gác chuông. Hai bên tam quan xây hai trụ biểu, phía bên trên mỗi biểu đắp hình con sấu chầu vào nhau. Thân trụ trang trí ô hộc, đắp chữ Hán.
Hiện nay, tam quan này đã bị nhà dân xung quanh xây kín, chắn mất lối đi. Để ra vào chùa, phải qua lối cửa nhỏ, vòng từ phía bên phải.Chùa Phúc Khánh có kết cấu kiểu chữ Công không cân xứng. Qua tam quan đến sân chùa lát gạch và nơi thờ tự bao gồm tiền đường và hậu cung.
Tiền đường 5 gian làm theo kiểu “đầu hồi bít đốc”. Chính giữa bờ nóc đắp nổi một hình cuốn thư, bên kiếm, bên bút lông. Mặt bằng tiền đường theo kiểu 4 hàng chân, vì kết cấu kẻ chuyền giá chiêng. Các bức cốn nách trang trí chạm khắc tứ quý; hiện có 6 cột đá vuông, xung quanh chạm đề tài tứ quý. Hậu cung 3 gian, vì làm kiểu chồng giường. Nhà tổ 4 gian, vì làm kiểu kè chuyền.
Trong chùa hiện còn lưu giữ được hiện vật quý là quả chuông đúc từ thời Tây Sơn, do đô đốc Trần Văn Lễ cúng tiến. Ngoài ra còn có khoảng hai mươi pho tượng trong chùa, có nhiều pho được làm từ thời Tây Sơn có giá trị cao trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam. Bên cạnh các pho tượng chùa, còn giữ được những hiện vât nghệ thuật giá trị như cửa võng, bia đá…
Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 16.11.1988

Như đã trình bày trong phần Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết, theo tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, trong khoảng hơn mười năm gần đây, chùa Phúc Khánh ở số 382 phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội đã trở thành một tâm điểm của tín đồ, phật tử từ khắp nơi, chủ yếu là người dân Hà Nội và các tỉnh miền Bắc đến tham dự các nghi lễ Phật giáo.

Thông qua sự phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng cũng như dựa vào những hiện tượng mà chúng tôi quan sát, phỏng vấn, có thể nhận thấy, đối tượng người hành lễ tại ngôi chùa này rất đa dạng, trong đó có một bộ phận là giới trí thức cũng như các quan chức từ trung ương tới địa phương. Loại hình sinh hoạt tâm linh tiêu biểu của chùa Phúc Khánh là lễ cầu an đầu năm (tổ chức vào ngày rằm tháng giêng), lễ cầu siêu và lễ dâng sao giải hạn.

Vào những ngày giáp Tết, chùa Phúc Khánh tấp nập người vào kẻ ra. Họ là những phật tử trung thành của chùa hoặc có khi chỉ là khách vãng lai, tới chùa để đăng kí cho các khóa lễ đầu năm mới. Trò chuyện với một số người, có thể nhận thấy không phải ai trước khi đến đây cũng đều nắm được thông tin về các khóa lễ này.

Ngoại trừ những Phật tử đã quen với việc làm lễ hàng năm tại chùa, một số lượng khá đông tín đồ ghé qua chùa nhằm mục đích nhờ các nhà sư tính giúp các thành viên trong gia đình mình năm nay có “dính” sao, hạn gì hay không. Ngày trước, gặp những trường hợp như vậy, các nhà sư thường giở sổ sách ra xem.

Nhưng khoảng năm năm trở lại đây, vì lượng khách muốn tìm hiểu về vấn đề này quá đông, để mọi người thuận tiện trong việc tự xem cho mình, bảng tính sao, tính hạn theo tuổi nam và nữ của năm mới sắp đến được in và dán trên hàng cột hiên, ngay trước Điện Mẫu.

Sau khi tín đồ xem và biết rõ sao, hạn trong năm mới của các thành viên trong gia đình mình như thế nào sẽ tới bàn làm việc của ban quản lý chùa để đăng kí làm lễ cầu an hoặc (và) lễ dâng sao giải hạn.

Cầu an là khóa lễ mà các chùa tổ chức vào mùa xuân (thường chọn ngày rằm tháng giêng - Tết Thượng Nguyên) nhằm mục đích cầu xin Đức Phật gia hộ cho những phật tử thành tâm một năm mới gặp nhiều điều an lành, sức khỏe dồi dào, ăn nên làm ra, gia đình thuận hòa, hạnh phúc.

Ở nhiều nơi (bao gồm cả Hà Nội và các tỉnh khác) người ta đặt ra mức giá chung cho việc đăng kí làm lễ cầu an tại chùa. Đối với trường hợp chùa Phúc Khánh, khi đăng kí tham dự khóa lễ này, đại diện mỗi gia đình ghi tên, tuổi các thành viên trong gia đình lên một tờ giấy có sẵn để nhà chùa đưa vào danh sách; nộp cho ban quản lý số tiền 50 ngàn đồng mua một lá sớ cầu an (sớ Phúc Thọ).
Trường hợp những gia đình có thành viên gặp phải “sao xấu” trong năm mới sẽ đăng kí làm lễ dâng sao giải hạn. Quan niệm dân gian cho rằng trong những sao chiếu mệnh tương ứng với từng năm, có ba loại sao bị coi là điềm dữ:

- Sao Thái Bạch: đem lại sự hao tán, mất mát tiền bạc. Lễ cúng dâng sao Thái Bạch được tổ chức vào ngày rằm hàng tháng, mở đầu là ngày rằm tháng giêng.

- Sao Kế Đô (đối với nữ): thường đem lại tai nạn, hao tán tiền bạc, bệnh tật… Lễ cúng dâng sao Kế Đô được tổ chức vào ngày 18 âm lịch hàng tháng, bắt đầu từ 18 tháng giêng.

- Sao La Hầu (đối với nam): thường đem lại sự dính líu tới luật pháp, bệnh tật, hao tài tốn của… Lễ cúng dâng sao La Hầu được tổ chức vào ngày mùng 8 âm lịch hàng tháng, bắt đầu từ mùng 8 tháng giêng.

Trước đây ở chùa Phúc Khánh quy định mức giá riêng đối với từng loại sao. Tuy nhiên hiện nay, tất cả ba loại sao đều được tính theo mức giá chung là 70 ngàn đồng/sao. Mỗi gia đình có bao nhiêu thành viên trong năm tới gặp phải sao dữ chiếu mệnh thì nộp số tiền tương ứng với số thành viên đó.

Lễ cầu an và lễ dâng sao giải hạn từ lâu đã trở thành một “thương hiệu” gắn liền với tên tuổi chùa Phúc Khánh, đó là nhận xét của nhiều tín đồ, người đi lễ mà chúng tôi có điều kiện tiếp xúc. Dựa trên kinh nghiệm qua việc đến chùa làm các lễ này từ những năm trước đó, nhiều người tin rằng các nghi lễ thật sự có hiệu quả. Sau khi làm lễ tập thể cùng với nhiều gia đình khác cảm thấy an tâm hơn, bớt đi một phần nỗi lo về những tai ương có thể giáng xuống những thành viên trong nhà mình.

Cùng với lễ cầu an đầu năm và lễ dâng sao giải hạn diễn ra hàng tháng, chùa Phúc Khánh còn là một điểm thu hút phật tử nhiều nơi đến làm lễ cầu siêu, đưa rước vong linh người thân của mình gửi lên chùa. Cầu siêu, nói một cách ngắn gọn nhất thì đó chính là loại hình nghi lễ thể hiện niềm tin của dân gian vào sự siêu thoát của những linh hồn sau khi đã về thế giới bên kia.

Trong quá trình tìm hiểu về chùa Phúc Khánh cũng như so sánh với nhiều ngôi chùa khác, chúng tôi nhận thấy rằng, những vấn đề xung quanh hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng mà đặc biệt là các khóa lễ diễn ra tại đây có nhiều điểm đáng lưu ý cả về nội dung và hình thức.

Đó là sự thay đổi tiến trình của một khóa lễ, là sự giản lược một số lễ nghi liên quan, là sự ra đời của một vài quan niệm mới... Những vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải có nhiều thời gian tiếp cận địa bàn, tiến hành khảo sát và căn cứ vào nhiều nguồn tư liệu khác nhau thì mới có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá mang tính chất tổng quát.

Mục đích của bài viết nhằm tìm hiểu một khóa lễ cụ thể : lễ cầu siêu - rước vong lên chùa. Vì vậy nội dung chủ yếu mà chúng tôi quan tâm là khóa lễ cầu siêu từ sự chuẩn bị cho tới chi tiết các bước tiến hành. Để có thể nhìn nhận vấn đề nghiên cứu này một cách khách quan, chúng tôi đã tiếp xúc với nhiều đối tượng có tham gia vào khóa lễ.

Những ý kiến, suy nghĩ, trao đổi mà họ bày tỏ với chúng tôi trong quá trình điền dã, tiếp cận địa bàn nghiên cứu đã giúp những người thực hiện đề tài này có cái nhìn đầy đủ hơn về khóa lễ cầu siêu.
Dưới đây, chúng tôi xin trình bày kết quả nghiên cứu của mình về lễ cầu siêu (còn được biết dưới tên gọi nghi thức rước vong lên chùa).\
Nghi thức rước vong
Một số khái niệm

Cầu siêu là một khóa lễ mà ở đó người ta cầu cho các chân linh, vong hồn sau khi từ giã dương gian được siêu sinh tịnh độ. Phong tục dân gian kết hợp với nghi thức tôn giáo biểu hiện ở việc trong các gia đình theo Phật giáo, khi có người chết, người ta thường thỉnh các vị sư đến làm lễ, niệm Phật, tụng kinh A Di Đà để cầu cho người chết được siêu thoát. Các vong hồn được nương nhờ cửa Phật, hi vọng có được cơ hội luân hồi, đầu thai sang kiếp khác.

Cầu siêu được tiến hành khi trong gia đình, họ tộc có người mất hoặc làm cải táng, bốc mộ v.v… Ngoài ra, Cầu siêu cũng được tổ chức dành cho những chân linh, vong hồn chẳng may chết do tai nạn, hi sinh, chết oan… Khi đó, cầu siêu đồng thời là nghi lễ giải oan, giúp cho các vong hồn được siêu thoát.

- Thời gian: Lễ Cầu siêu được tiến hành trong ba trường hợp sau:
+ Dành cho người mới mất trong vòng 49 ngày (7 tuần lễ đầu tiên). Khi đó, gia chủ thỉnh chư tăng về làm lễ để cầu cho vong hồn người thân của mình sớm được siêu thoát, đầu thai làm kiếp khác. Tùy vào điều kiện kinh tế của gia đình, người ta tổ chức đàn lễ từ 3 - 7 ngày (có thể lâu hơn).
+ Tổ chức vào mùa Vu Lan - Báo Hiếu Báo Ân (trong tháng 7 âm lịch, thường là trung tuần tháng 7). Trong dịp này, những gia đình, chi họ, dòng họ có thể tập hợp nhau, cùng lập một đàn tràng có quy mô lớn để cầu siêu cho tất cả các chân linh, vong hồn trong họ tộc của mình.
+ Đại lễ cầu siêu cho vong hồn các liệt sỹ đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, hoặc tưởng niệm nạn nhân của những tai nạn đáng tiếc đã không may xảy ra.
- Không gian: Tùy từng trường hợp cụ thể mà nghi lễ Cầu siêu được tổ chức ở những địa điểm khác nhau.
+ Lễ Cầu siêu dành cho người thân mới mất trong vòng 49 ngày hoặc cho các chân linh của dòng họ thường được tổ chức tại một ngôi chùa. Ở đó, chư tăng sẽ tiến hành những lễ nghi cần thiết để cầu siêu cho các vong hồn mà gia đình, dòng họ yêu cầu.
+ Lễ Cầu siêu dành cho các anh hùng, liệt sỹ hoặc những người bị tai nạn v.v… có sự tham gia của đông đảo quan khách, tín đồ Phật giáo và quần chúng nhân dân thường diễn ra ở đài tưởng niệm.
Trong phạm vi của bài viết, người thực hiện chỉ giới hạn việc khảo sát đối với lễ cầu siêu dành cho các gia đình có người thân mới mất trong vòng 49 ngày. Lễ cầu siêu được tổ chức tại một ngôi chùa cụ thể.
Vong, vong linh, vong hồn, linh hồn,…
Đây là những cách gọi của dân gian để chỉ một dạng thức về sự sống của con người sau khi chết. Quan niệm dân gian cho rằng con người bao gồm hai phần là hồn và xác. Khi người ta chết đi, phần xác ở lại (biểu hiện là ngừng thở, không còn sự sống duy trì trong thân xác đó), phần hồn tồn tại dưới dạng không thể nhìn thấy nhưng vẫn tiếp tục sống, chờ đợi được phán quyết: về cõi trời, hưởng cuộc sống đầy đủ, ấm no; đầu thai sang kiếp khác - được làm người; hoặc bị đày xuống địa ngục.
Khác với dân gian, Phật giáo không gọi đó là những vong linh, linh hồn… mà có một quan niệm riêng về Thân Trung Ấm (sẽ trình bày cụ thể ở phần dưới). Ngoài ra, dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa, Phật giáo dân gian Việt Nam thường sử dụng hai cách gọi dùng để chỉ các vong linh:
- Chân linh: vong linh của người tại gia
- Giác linh: vong linh của người xuất gia
Rước vong lên chùa, đưa vong lên chùa
Thực tế trong Phật giáo không có khái niệm “rước vong lên chùa”. Đây chỉ là một cách dân gian thường gọi, dùng để nói về việc mang bát hương, bài vị (sau này có thêm ảnh) của một người đã mất đặt tại một ngôi chùa nào đó. Hàng tháng hàng năm, nhằm ngày rằm, mùng một hay lễ tết, những vong linh được gửi để thờ cúng trong chùa sẽ được thụ hưởng cơm cháo, hoa quả, vàng mã mà nhà chùa thắp hương chung cho tất cả, không phân biệt đối tượng, tuổi tác…
Quan niệm về của Phật giáo về Thân Trung Ấm
Dân gian cũng như Phật giáo đều quan niệm rằng., cơ thể người được cấu thành bởi hai phần: thần thức và thể xác. Dân gian gọi hai phần đó là hồn (thần thức) và xác (thể xác). Còn đối với Phật giáo, khi một người chết đi, phần xác sẽ được trả lại với thiên nhiên. Phần xác gồm có Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa): Đất về với đất, Nước về với nước, Gió về với gió v.v… Phần thần thức còn lại sẽ phải chịu một thời kỳ gọi là Thân Trung Ấm
Thân Trung Ấm (bardo/intermediate state) nên hiểu nôm na là sự sống sau khi chết trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ va Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà là lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa tìm thấy một nơi tương ứng với mình để tái sinh thì nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.
Trong thời gian ở lại với cõi trung ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra mình đã chết, họ quay lại gia đình để gặp những người thân nhưng không ai biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở lại bình thường như lúc còn sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra bóng hình không in lên đất, không phản chiếu trên gương, họ mới biết là mình đã chết.
Từ đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau đều hiện ra trước họ như một cuộn phim suốt cuộc đời họ. Nếu vong linh là người từng tạo phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành.
Còn nếu những người từng tạo ra ác nghiệp, có đời sống tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cõi trung ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của mình, thì người ấy chọn lựa cho mình một cảnh giới tốt để tái sinh, ngõ hầu tiếp tục tu luyện hoặc vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Trái lại thì không có sự lựa chọn nào, mà thần thức người ấy bị buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của mình, cho dù người ấy có muốn đi hay không.
(Thích Nguyên Tạng (2000), Chết và Tái sinh, Tu viện Quảng Đức, Melbourne, Úc)
Thực tế nhà Phật quan niệm rằng có 10 cảnh giới: Phật, Thanh văn, Duyên giác, Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh… Một vong linh Nếu không hướng dẫn được thì sẽ có thể bị các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh lôi kéo. Tiến hành khóa lễ cầu siêu là để khi ta niệm Phật, năng lượng của người đang sống và năng lượng của vong linh cùng hòa đồng. Khi ấy, tâm đồng thanh khí tương cầu, vong linh mới có thể siêu sinh được.
Trong 10 cảnh giới đó, 4 cảnh giới trên sẽ không phải chịu luân hồi, còn 6 cảnh giới dưới bao gồm: Thiên, Atula, Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh thì vẫn phải chịu luân hồi, nếu hết phúc thì có thể bị đọa. Hơn thế nữa, việc vong linh được nương vào vào 4 cảnh giới trên hay 6 cảnh giới dưới còn tùy thuộc vào hạnh nguyện của người đã mất. Nếu lên 4 cảnh giới trên rồi mà muốn trở lại thì vẫn có thể về 6 cảnh giới dưới.
Tuy nhiên, việc trở về là do hạnh nguyện của người ta chứ không phải do nghiệp lực tạo nên. Theo nghiệp lực vong linh không còn ở cõi này nữa nhưng người ta phát nguyện quay trở lại để giúp đỡ người khác, cứu độ chúng sinh thì vẫn được tái sinh làm người. Và tất nhiên, tiếp tục chịu vòng luân hồi, chờ tới khi trải qua một kiếp mới có thể biết được sẽ đi về đâu.
Bên cạnh quan niệm về Thân Trung Ấm của Phật giáo chỉ có thể duy trì trong vòng 49 ngày, hiện nay còn tồn tại một quan niệm nữa là có những linh hồn nếu vì lý do nào đó (thường là chịu nỗi oan khuất chưa được giải thoát) thì chưa thể tái sinh, phải chờ trong vòng chậm nhất là 500 năm sau.
Theo quan niệm của Phật giáo, ngày thứ 49 là ngày định nghiệp, sẽ quyết định xem vong linh đó đi vào cảnh giới nào. Trong một số trường hợp, có thể có những vong linh không phải chờ làm lễ cầu siêu thì mới siêu thoát, mà tự vong linh ấy đã siêu thoát rồi.
Nhưng với người đang sống, vì không thể biết được những chuyện như vậy nên để giải quyết nhu cầu về mặt tâm linh, người ta tiến hành những khóa lễ cầu siêu. Người sống thành tâm tưởng niệm tới người chết thì vong linh sẽ yên tâm để đi tái sinh.
Ý nghĩa của khóa lễ cầu siêu là cầu nguyện cho vong linh, dùng kinh giảng giải cho người ta thấy được những điều Thiện. Nói cách khác, đó là sự hướng dẫn để vong linh hướng tâm theo chính đạo.
Cầu siêu - đưa vong lên chùa có hai loại:
- Một là các gia đình đưa vong linh người thân của mình lên chùa, sau lễ cầu siêu thì gửi bát hương, ảnh tại bàn thờ vong để người thân của mình nương nhờ cửa Phật.
- Hai là nghi lễ cầu siêu đặc biệt đối với những gia đình có người thân mất vào “giờ nặng” hoặc trùng tang.
Trùng tang là thuật ngữ dùng để chỉ hiện tượng trong gia đình có người mất kế tiếp nhau trong một khoảng thời gian gần (tối đa là 3 năm - trước khi làm lễ cải táng). Cách thức tính trùng tang là dùng tuổi của người mất so với năm, tháng, ngày, giờ của người mất xem có phạm vào trùng tang hay không. Một cách hiểu đơn giản nhất về trùng tang là trong vòng 3 năm kể từ khi gia đình có người mất, nếu có người thân khác cũng mất đi thì như vậy được coi là trùng tang. Thuật ngữ này vốn thuộc về dân gian, bản thân Phật giáo không có. Tuy nhiên, ngày nay, dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa và đạo Lão, tại các chùa, tu sĩ đều sử dụng quan niệm và phương pháp tính trùng tang của dân gian để tính trùng tang cho những người có nhu cầu quan tâm, tìm hiểu và muốn làm lễ trừ giải.
Từ quan niệm về trùng tang, mỗi tôn giáo đưa ra biện pháp tâm linh riêng nhằm trói chặt, giam hãm các vong linh, không cho quay về quấy nhiễu, gây hại cho người còn sống. Đối với Phật giáo, giải pháp là tổ chức khóa lễ cầu siêu để cầu cho vong linh hiểu ra lẽ phải mà siêu thoát, không còn gây tai họa cho gia đình của mình nữa.
Thiền sư Như Trừng (tự Lân Giác, 1696 - 1733), đời thứ 37 thuộc Thiền phái Lâm Tế là vị tổ đã tu tại chùa Liên Phái (nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), đồng thời là người sáng lập chùa Hàm Long (huyện Quế Võ, Bắc Ninh). Đương thời, vị Thiền sư này đã chế ra biện pháp tâm linh riêng để trấn áp những vong linh hung dữ. Tại chùa Liên Phái, nhà sư sử dụng bùa chú đặt vào mộ người mất để ngăn chặn sự trở về, quấy nhiễu con cháu. Còn ở chùa Hàm Long, sau khoa Cúng Phật, ngoài sớ Phật âm được tuyên đọc, nhà sư viết riêng hai tờ Điệp y, một lá do nhà chùa giữ, một lá đưa cho gia đình có người mất mang về dán ở bàn thờ. Ngày rằm, mùng một, khi thắp hương cho tổ tiên thì gia đình không được đọc tên của vong linh kia. Chỉ tới ngày giỗ, đại diện gia đình lên chùa soạn một lễ nhỏ, mời vong linh về dự đám giỗ rồi sau đó tiếp tục gửi vong trở lại.
Trường hợp nếu xảy ra hiện tượng trùng tang trong một khoảng thời gian ngắn thì cần phải thực hiện nghi thức chạy đàn để cắt trùng tang. Chạy đàn là một nghi thức phức tạp, đòi hỏi nguồn kinh phí lớn (tính đến thời điểm hiện nay, ước chừng khoảng 40 triệu trở lên). Để tiến hành nghi thức này là cần khoảng 10 - 100 vị tăng, tùy theo quy mô của mỗi đàn lễ (ni không được phép tham dự)…
Con người ta khi sống trên đời đều có thể vì lý do này, lý do khác (dù không cố ý) gây nên những tội lỗi. Người sống làm lễ cầu siêu - rước vong lên chùa, thực chất là làm những điều phúc để sám hối, gỡ tội cho vong linh để đến ngày định nghiệp, sẽ giảm bớt phần nào những tội lỗi mà người mất khi còn tại thế đã mắc phải. Dựa vào đó, hình phạt mà vong linh phải chịu có thể sẽ thấp hơn so với những điều sai trái mà họ đã gây ra. Cúng Phật, phóng sinh, làm việc tốt, cúng dàng Tam Bảo, cúng dàng chư tăng… là những việc mà người sống thực hiện để “gỡ tội” cho người đã chết.
Báo hiếu, báo ân cũng là một ý nghĩa quan trọng của khóa lễ cầu siêu. Đối với vong linh người già, khi sống trên dương gian, họ phải vất vả để sinh nở, nuôi dưỡng con cái. Vì vậy, khi họ mất đi, con cái có bổn phận phải báo đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Con cái có bổn phận phải báo đáp. Về điểm này, giữa Phật giáo và dân gian có sự tương đồng. Uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ tổ tiên, cha mẹ cũng là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Phần ý nghĩa này thuần túy như trong Kinh Vu Lan đã dạy
Trong phần này, chúng tôi tập trung trình bày về vai trò của chùa Phúc Khánh trong đời sống tín ngưỡng của người Hà Nội.
Chùa Phúc Khánh hiện nay đặt tại số 382 phố Tây Sơn, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa cổ, theo truyền thuyết, có từ thời Trần. Cho đến trước khi chùa Quán Sứ được xây dựng, tổ đình Phúc Khánh là một trung tâm đào tạo tăng ni, phật tử của miền Bắc nước ta. Ngôi chùa hiện nay mang dấu ấn phong cách kiến trúc có từ cuối thế kỉ 18 với nhiều hiện vật cổ còn lưu giữ được.
Khoảng hơn mười năm gần đây, chùa Phúc Khánh trở thành một tâm điểm của tín đồ, phật tử từ khắp nơi, chủ yếu là người dân Hà Nội và các tỉnh miền Bắc đến tham dự các nghi lễ Phật giáo. Đối tượng người hành lễ tại ngôi chùa này rất đa dạng, trong đó sự có một bộ phận tín đồ, người đi hành lễ là giới trí thức cũng như các quan chức từ trung ương tới địa phương.
Trong những hoạt động tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra tại chùa Phúc Khánh, lễ cầu siêu - rước vong lên chùa là một loại hình nghi lễ khá tiêu biểu. Chương 1 này tập trung làm rõ một số khái niệm liên quan đến khóa lễ như: cầu siêu; vong, vong linh, linh hồn...; rước vong lên chùa, đưa vong lên chùa. Đồng thời, chúng tôi cũng nêu lên ý nghĩa tâm linh của lễ cầu siêu, đó là sự cầu nguyện cho vong linh, dùng kinh giảng giải cho người ta thấy được những điều Thiện.
Nói cách khác, là sự hướng dẫn để vong linh hướng tâm theo chính đạo. Ngoài ra, còn tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể, người ta tin rằng khóa lễ cầu siêu có chức năng trấn áp những vong hồn chẳng may mất “trùng tang”, quay lại quấy nhiễu, gây họa cho người thân, gia đình. Đối với những vong linh như vậy, bùa chú, cấp điệp y riêng hay thực hiện nghi lễ chạy đàn là các phương pháp được sử dụng nhằm ngăn chặn ảnh hưởng từ vong linh hung dữ. Khóa lễ cầu siêu cũng được coi như một biểu hiện của việc báo hiếu, báo ân đối với những người có công ơn dưỡng dục, sinh thành.
Trên cơ sở việc giới thiệu những nét khái quát về lễ cầu siêu, trong chương kế tiếp, chúng tôi xin được trình bày cụ thể về khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa tổ chức tại chùa Phúc Khánh mà chúng tôi đã tìm hiểu trong thời gian điền dã tại ngôi chùa.


Thực trạng nghi lễ Phật giáo hiện nay - phần 3
Sau khi mọi công việc của một đám tang hoàn tất, gia đình chuẩn bị cho đưa vong lên chùa. Dựa trên quan niệm về Thân Trung Ấm, cứ 7 ngày một lần, cảnh tượng lúc mất được tái hiện mà người ta làm lễ Tuần. Liên tục như vậy trong 7 tuần, kết thúc ngày thứ 49.
Tiến trình của một lễ rước vong lên chùa tại Chùa Phúc Khánh
Nhìn chung, ở Hà Nội hiện này, mỗi gia đình khi có người thân mất đi, ngoài việc lo tổ chức đám tang, con cháu, họ hàng còn phải lên kế hoạch cho những nghi thức liên quan đến việc gửi gắm vong linh của mình vào nương nhờ cửa Phật.

Nhiều gia đình có sự chuẩn bị từ trước, ngay từ lúc người bệnh đang lúc hấp hối đã thỉnh chư tăng về bên giường bệnh, tiến hành nghi thức trợ niệm để người thân của mình được thanh thản ra đi. Trong đám tang tổ chức tại nhà tang lễ, ở phần khâm liệm và nhập quan, gia đình cũng có thể thỉnh chư tăng tới tham dự, tiến hành trì Chú Đại Bi và niệm Phật để cầu Đức Phật gia hộ cho vong linh. Ba ngày kể từ thời điểm người thân mất đi, gia đình làm Lễ Phục hồn, sửa soạn lễ vật dâng cúng, thắp hương cho vong linh.

Sau khi mọi công việc của một đám tang hoàn tất, gia đình chuẩn bị cho đưa vong lên chùa. Dựa trên quan niệm về Thân Trung Ấm, cứ 7 ngày một lần, cảnh tượng lúc mất được tái hiện mà người ta làm lễ Tuần. Liên tục như vậy trong 7 tuần, kết thúc ngày thứ 49

Gia đình có người mất sẽ đến chùa đăng kí với ban hộ tự (giúp việc chùa), ghi tên vong linh cùng các thành viên trong gia đình vào một cuốn sổ riêng để bắt đầu tiến hành những việc cần chuẩn bị cho khóa lễ cầu siêu. Ở chùa Phúc Khánh, gia đình có người mất có hai lựa chọn:

- Chỉ đăng kí làm lễ cầu siêu - đưa vong lên chùa vào ngày thứ 49.
- Đăng kí làm lễ Tuần và lễ cầu siêu vào ngày thứ 49.

Với trường hợp thứ nhất là chỉ đăng kí làm lễ cầu siêu - rước vong lên chùa, mỗi gia đình đóng một khoản tiền 500 ngàn đồng. Ngày chủ nhật của tuần thứ 7 (hoặc tuần thứ 8), tùy theo ngày mất của vong linh, con cháu, họ hàng của người quá cố đến chùa dự khóa lễ cầu siêu chung.

Với trường hợp thứ hai là đăng kí làm lễ Tuần và lễ cầu siêu, mỗi gia đình ngoài nộp khoản tiền 500 ngàn đồng cho lễ cầu siêu, còn thêm 360 ngàn đồng để nhà chùa sửa soạn lễ cúng Tuần cho vong linh. Lễ cúng Tuần này chỉ bao gồm việc thắp hương và hoa quả, không có các nghi thức khác. Người thân của vong linh không nhất thiết phải tới chùa tham dự.

Đến ngày chủ nhật của tuần thứ 7 hoặc tuần thứ 8 kể từ ngày vong linh mất đi, gia đình tới chùa để dự khóa lễ cầu siêu, tiến hành những nghi thức rước vong lên chùa. Tùy theo nhu cầu của mỗi gia đình, có thể đăng kí từ trước với nhà chùa để chuẩn bị mâm cơm chay để dâng cúng cho vong linh. Giá mỗi mâm cơm chay là 240 ngàn đồng. Xôi chè (gồm một bát, một đĩa) là 20 ngàn đồng. Ngoài ra, phía gia đình có thể mua thêm hoa quả, đồ mã để thắp hương cho vong linh, nhà chùa không quy định cụ thể.

- Thời gian tiến hành
Khóa lễ cầu siêu - rước vong tại chùa Phúc Khánh được tổ chức vào lúc 9h - 11h30 sáng chủ nhật hàng tuần.

- Thành phần tham dự khóa lễ cầu siêu
Thành phần tham dự trong 5 buổi lễ cầu siêu được tiến hành tại chùa Phúc Khánh mà người viết đã khảo sát cụ thể như sau:
- Ngày 01.03.2009: 2 nhà sư, 3 thầy cúng, 8 gia đình làm lễ 49 ngày và 5 gia đình làm lễ Tuần.
- Ngày 08.03.2009: 2 nhà sư, 3 thầy cúng, 12 gia đình làm lễ 49 ngày và 4 gia đình làm lễ Tuần.
- Ngày 15.03.2009: 3 nhà sư, 2 thầy cúng, 10 gia đình làm lễ 49 ngày và 5 gia đình làm lễ Tuần.
- Ngày 22.03.2009: 2 nhà sư, 2 thầy cúng, 9 gia đình làm lễ 49 ngày và 6 gia đình làm lễ Tuần.
- Ngày 29.03.2009: 2 nhà sư, 2 thầy cúng, 10 gia đình làm lễ 49 ngày và 7 gia đình làm lễ Tuần.

Thành viên tham gia khóa lễ thường đến muộn hơn so với giờ bắt đầu tiến hành buổi lễ. Điều này không làm ảnh hưởng tới những hoạt động phục vụ cho lễ cầu siêu đã và đang diễn ra tại chùa.

- Những nội dung cần chuẩn bị trước khi tiến hành một khóa lễ cầu siêu
Khóa lễ cầu siêu ở chùa Phúc Khánh chính thức tổ chức từ 9h - 11h30 mỗi buổi sáng chủ nhật hàng tuần. Tuy vậy, từ trước đó, những công việc cần chuẩn bị cho khóa lễ đã được phía nhà chùa và gia đình thỏa thuận với nhau để có thể cùng phối hợp tiến hành.

Về phía nhà chùa
Ở chùa Phúc Khánh cũng như nhiều ngôi chùa khác, hầu hết sự chuẩn bị cho khóa lễ này do các phật tử (chủ yếu là các cụ già, gọi là người chấp tác) đảm nhiệm.

Buổi chiều thứ bảy trước khi diễn ra khóa lễ, họ đến cửa hàng, mua sắm quần áo, sớ Tiếp linh, sớ Trạng mã và sớ Biểu âm cho vong linh theo số lượng mà các gia đình đăng kí. Buổi lễ ngày 01.03.2009 là 8 bộ quần áo (nam và nữ), 8 lá sớ Tiếp linh, 8 lá sớ Trạng mã, 8 lá sớ Biểu âm cho 8 gia đình làm lễ 49 ngày. Buổi lễ ngày 29.03.2009 là 10 bộ quần áo (nam và nữ), 10 lá sớ Tiếp linh, 10 lá sớ Trạng mã, 10 lá sớ Biểu âm cho 10 gia đình làm lễ 49 ngày.

Ngoài ra, họ còn mua hoa, quả, bánh kẹo và nguyên liệu cần thiết để làm cỗ mặn và cỗ chay cho 1 mâm quả dâng cúng Phật, 1 mâm cơm chay, 1 mâm cơm mặn.

Sáng sớm ngày chủ nhật, các Phật tử này thức dậy, nấu một nồi cháo hoa, chia ra từng bát nhỏ (số lượng tương ứng), bày sẵn lên mâm. Họ cũng nấu xôi nén vào khuôn thành từng chiếc oản. Xôi chè đã được nấu sẵn từ tối hôm trước, chỉ việc sắp lên mâm, cũng với số lượng tương ứng mà các gia đình đã đăng kí.

Một nhóm Phật tử chịu trách nhiệm nấu 2 mâm cỗ: 1 mâm cỗ chay và 1 mâm cỗ mặn. Mỗi mâm thường có khoảng 3 món thức ăn, 1 tô cơm, 1 bát canh, 2 món rau.

Một nhóm phật tử khác chịu trách nhiệm chuẩn bị nước tắm vong sẽ lấy ra từ kho những chiếc khay nhựa nhỏ (số lượng tương ứng với số vong linh 49 ngày). Trên mỗi khay đặt 3 bát nước: nước hương (nước rắc tàn hương), nước hoa (nước rải cánh hoa), nước gừng (gừng thái sợi hoặc gừng giã nhỏ).

Hoa cắm sẵn vào những chiếc lọ đặt tại các bàn thờ trong chùa.

Quả mua từ chiều hôm trước được bày lên mâm, tiền vàng tất cả đặt tại bàn thờ Tam Bảo.

Trước bàn thờ Vong bày sẵn một mâm cơm chay và một mâm cơm mặn. Bài vị của các vong linh 49 ngày (có ghi rõ tên, tuổi, ngày tháng năm mất, địa chỉ của gia đình vong linh) do một phật tử già mang cắm vào những chiếc lọ trên bàn thờ Vong. Bánh kẹo được bày trong một chiếc mâm đặt ở bàn thờ Vong.

Về phía gia đình
Hầu như các gia đình sau khi đã nộp tiền để nhà chùa tổ chức lễ cầu siêu cho thân nhân của mình không cần chuẩn bị thêm lễ vật gì khác. Tùy theo sự thành tâm của mỗi cá nhân hoặc gia đình, trong ngày làm lễ cầu siêu họ có thể mua thêm hoa, quả, hương và một ít đồ mã để hóa cho vong linh.

Tuy nhiên nhà chùa cũng lưu ý họ không nên mang tới quá nhiều vàng mã vì ở chùa Phúc Khánh không khuyến khích điều này.

Vào buổi sáng chủ nhật theo lịch nhà chùa hẹn từ trước, người thân của vong linh được yêu cầu đến trước 9h để sẵn sàng cho việc tham dự khóa lễ. Thành viên trong gia đình nên có mặt đầy đủ. Đối với những trường hợp làm lễ 49 ngày cho vong linh, tùy mối quan hệ với người đã mất mà người thân đeo khăn tang trắng hoặc vàng.

- Một số lưu ý

Trong quá trình khảo sát điền dã 5 khóa lễ cầu siêu tổ chức tại chùa Phúc Khánh cũng như tìm hiểu về những lễ cầu siêu ở một số ngôi chùa khác, người viết nhận thấy nội dung khóa lễ ở chùa Phúc Khánh có một số điểm khác biệt, ví dụ như:

Thông thường ở những ngôi chùa khác, khóa lễ cầu siêu cho trường hợp gia đình có người thân mới mất trong vòng 49 ngày chỉ sẽ được tổ chức đúng vào ngày thứ 49, riêng từng gia đình.Tuy nhiên, ở chùa Phúc Khánh, khóa lễ này chỉ diễn ra vào ngày chủ nhật hàng tuần. Vì vậy, vào mỗi chủ nhật, tại chùa, những gia đình có người thân mất trong vòng trên dưới 49 ngày đã đến đăng kí gửi vong lên chùa được tập trung lại, tổ chức một khóa lễ cầu siêu tập thể.

Do ở chùa Phúc Khánh chỉ tổ chức cúng Tuần và cầu siêu cùng vào ngày chủ nhật nên trong một khóa lễ như vậy, các gia đình tham dự có thể có người thân mất vào dịp 49 ngày, có thể có người thân mới mất khoảng một vài tuần. Điểm khác nhau dễ nhận thấy nhất trong thành phần tham gia khóa lễ là những gia đình có người thân mất được khoảng 49 ngày sẽ mang theo một ít đồ mã và hoa quả để thắp hương cho vong linh. Họ đeo khăn tang màu trắng (hoặc vàng, phụ thuộc vào quan hệ với vong linh). Những gia đình chỉ dự lễ Tuần thường không mang theo đồ lễ và không đeo khăn tang.

Tương ứng, phía nhà chùa cũng chỉ chuẩn bị bài vị, sớ và những lễ vật cần thiết cho vong linh đã mất khoảng 7 - 8 tuần. Khi tiến hành khóa lễ cũng chỉ đọc tên vong linh đó và các thành viên trong gia đình của vong linh. Những gia đình làm lễ Tuần tự mình khấn vọng cho vong hồn người quá cố.

- Quang cảnh của một buổi lễ cầu siêu

Do tính chất của khóa lễ cầu siêu, các hoạt động chủ yếu chỉ diễn ra tại hai khu vực là phía trước bàn thờ Tam Bảo và phía trước bàn thờ Vong.

- Tại bàn thờ Tam Bảo (ở giữa chính điện)

- Phía trên của bàn thờ Tam Bảo, chính giữa là tượng Thích Ca Sơ Sinh. Hai bên là hai hàng giá nến lớn từ cao xuống thấp, gồm 12 ngọn nến. Bên cạnh hàng nến bên phải là một mâm 20 xôi oản. Bên cạnh hàng nến bên trái là một mâm đặt nải chuối lớn. Dưới chân những giá đỡ mâm có một đĩa bánh và một đĩa cam. Trên bàn thờ còn có 4 lọ hoa hồng, chia đều sang hai bên.
Tại chiếc bàn kê liền kề với bàn thờ Tam Bảo, đặt 1 lọ hoa cúc vàng cắm xen lẫn với hoa hồng. Những loại hoa này được tự ý lựa chọn, không có quy định cụ thể. Hai bên lọ hoa là 3 đĩa quýt do nhà chùa chuẩn bị. Các gia đình nếu muốn thắp hương thêm thì có thể bày hoa quả lên vị trí đó để dâng cúng vong linh nhà mình.

- Tại bàn thờ Vong (ở gian ngoài cùng phía bên trái của tiền đường)
Phía trên bàn thờ Vong bày ảnh của các vong linh. Bài vị ghi tên, tuổi, ngày mất của vong linh 49 ngày và địa chỉ gia đình cắm trong những chiếc lọ bày xung quanh bàn thờ. Chính giữa bàn thờ là một đĩa đặt nải chuối, quýt. Chiếc bàn phía trước bàn thờ Vong để chuông, mõ, hương kèm theo một đĩa quả. Phía dưới là hai mâm cơm chay và cơm mặn đặt trên hai chiếc ghế.

Trên nền đất phía dưới bàn thờ Vong có trải chiếu, bên trên bày một mâm quần áo cho vong linh, một mâm cháo, một mâm bánh kẹo.
- Nội dung của khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa
Tiến trình của một khóa lễ cầu siêu cơ bản (theo Khoa cúng thông dụng - tài liệu lưu hành nội bộ, Phật Lịch 2546) bao gồm:
+ Tiếp linh (tuyên sớ Tiếp linh)
+ Cúng Phật (tuyên sớ Phật âm)
+ Triệu linh
+ Tắm vong và hóa mã (tuyên sớ Trạng mã)
+ Quy y vong
+ Tụng kinh A Di Đà
+ Tuyên sớ Biểu âm
+ Cúng chúc thực (tuyên sớ Cấp vong), Cúng thí thực
Tại chùa Phúc Khánh, vì nhiều lý do (người viết sẽ trình bày giả thuyết của mình ở phần phân tích trong phần sau của đề tài này), có sự thay đổi vị trí của một số khoa cúng, cũng như lược bớt vài phần tuyên sớ, cụ thể là:
+ Tiếp linh (tuyên sớ Tiếp linh)
+ Triệu linh
+ Tắm vong và hóa mã (không tuyên đọc sớ Trạng mã mà chỉ hóa kèm trong đồ mã chuẩn bị chung cho các gia đình)
+ Cúng Phật (không sử dụng sớ Phật âm)
+ Quy y vong
+ Tụng kinh A Di Đà
+ Tuyên sớ Biểu âm
+ Cúng chúc thực (không sử dụng sớ Cấp vong), không Cúng thí thực

Phần trình bày về nội dung của một khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa dưới đây tập trung vào những hoạt động diễn ra tại chùa Phúc Khánh, có so sánh đối chứng với những khóa lễ tương ứng ở những nơi khác. (còn tiếp)







Thực trạng nghi lễ Phật giáo hiện nay - phần 4
Nội dung của khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa bao gồm 8 nội dung: Tiếp linh, Triệu linh, Tắm vong và Hóa mã, Cúng Phật, Quy y vong, Tụng kinh A Di Đà, Tuyên sớ Biểu âm, Chúc thực.
Tiếp linh
Khi cầu siêu cho các chân linh, vong hồn, trước hết người ta lập đàn lễ để gọi vong linh về, gọi là khoa Tiếp linh. Đây là khoa cúng mở đầu của khóa lễ cầu siêu. Người bình thường không thể tự mình gọi lên các chân linh, vì thế phải phiền đến các vị sứ giả đi tìm vong đang lưu lạc khắp nơi về tham dự đàn tràng để quy y cửa Phật.
Khoa Tiếp linh diễn ra ở ban thờ Vong.
Trong khoa Tiếp linh, lễ vật là 1 mâm lễ mặn gồm có xôi, gà, trầu, rượu, thuốc lá; 1 cỗ ngựa đỏ (bao gồm 1 ông ngựa mã, 1 mũ mã, 1 đôi hia mã, 1 bộ quần áo mã) kèm theo 1 lá sớ Tiếp linh nhờ sứ giả cầm sớ, đi tìm vong linh về cho mình.
Trong phần lễ Tiếp linh, trai chủ sẽ tiến hành đỉnh lễ tôn thần sứ giả tứ bái. Hai bên tả, hữu (thầy cúng) ứng đối theo một bài khấn Tiếp linh.
Các vị tăng (trong hai buổi lễ ngày 01.03.2009 và ngày 29.03.2009 đều là 2 người) tuyên đọc sớ thỉnh mời 5 vị sứ giả là: Thiên phủ Tứ thiên sứ giả, Phi thiên Tập tiệp sứ giả, Địa phủ Diễn ma sứ giả, Thủ phủ Không hành sứ giả và Thổ địa Linh quan sứ giả .
Kết thúc bài khấn Tiếp linh là tới phần Kham thán chung (do các vị tăng tham gia khóa lễ và thầy cúng ngồi ở hai bên đàn lễ cử) nói lên nỗi niềm tưởng nhớ, tiếc thương của gia đình đối với người đã quá cố; đồng thời gửi gắm ước nguyện chư Phật chỉ đường dẫn lối cho vong linh được tới nghe kinh.
Tùy theo quan hệ giữa người đã mất với người chịu lễ có mặt tại đàn lễ mà người ta có thể thán các bài riêng:- Vợ chồng thán cho nhau, Cha mẹ thán con.
Tuy nhiên, khoa Tiếp linh do chùa Phúc Khánh tổ chức chỉ dừng lại ở phần cử bài văn khấn. Không tuyên đọc sớ Tiếp linh. Không cử phần Kham thán chung cũng như Khám thán riêng.
Trong khóa lễ cầu siêu hoàn chỉnh, kết thúc phần Tiếp linh là khoa Phát tấu.
Cúng Tổ diễn ra tại nhà Tổ của ngôi chùa. Nội dung của phần Cúng Tổ chỉ gồm có 1 mâm quả, nước, hương, hoa… dâng cúng lên những vị tổ đã có công sáng lập, gây dựng nên ngôi chùa hiện nay.
Khoa Phát tấu là sự nối tiếp của khoa Tiếp linh.
Được các vị sứ giả giúp đỡ mời vong linh về, kế tiếp, gia chủ chuẩn bị lễ Phát tấu để tiến lễ mã ngựa cho 5 vị sứ giả đến Tây Phương thỉnh cầu chư Phật về dự đàn lễ Cầu siêu.
Lễ vật của đàn lễ Phát tấu bao gồm: 1 mâm cơm mặn (tam sinh: thủ lợn, gà, ngan), thuốc lá (5 bao), ngựa mã (5 con), mũ mã (5 chiếc), hia mã (5 đôi), áo mã (5 chiếc).
Nội dung của khoa Phát tấu là cử bài khấn, trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh.Trong lễ cầu siêu tại chùa Phúc Khánh không có Cúng Tổ và Phát tấu.
Triệu linh
Từ khoa Triệu linh trở về sau, tại chùa Phúc Khánh thường chỉ có một vị tăng và hai thầy cúng đảm nhiệm công việc. Có thể thay đổi vị tăng này tạm ngừng thì vị tăng khác lên đàn lễ thay thế. Biểu hiện này duy trì trong suốt 5 khóa lễ mà chúng tôi có điều kiện quan sát.
Triệu linh là nghi lễ mà đại diện gia đình mời các vong linh thân nhân của họ về để Cầu siêu. Khoa cúng Triệu linh ở các nơi khác diễn ra tại bàn thờ Tam Bảo. Nhưng ở chùa Phúc Khánh, Triệu linh được thực hiện tại bàn thờ Vong.
Trong phần Triệu linh này, người chủ lễ sẽ trình bày một bài khấn có nội dung bao hàm những lời mà đại diện gia chủ (có thể là cha, là con, hay những người thân khác của gia đình) nói lên những khát vọng, những điều khẩn cầu với đức Phật độ trì cho các vong linh của họ; đồng thời cũng là những lời mời gọi vong về đàn lễ để “nương nhờ cửa Phật” mong được siêu thoát, tịnh độ.
Trong khoa cúng Triệu linh, ngoài phần nội dung chính do trai chủ kiến thành đỉnh lễ, còn có những bài khấn riêng dành cho thân nhân của người mất, tùy theo mối quan hệ gia đình:Vợ chồng cúng cho nhau (1bài), Cha mẹ cúng cho con (2 bài)
Sau khi kết thúc lễ Triệu linh, gia chủ sẽ sửa soạn một mâm lễ mặn để cúng chúc thực - mời vong linh về ăn.
Tắm vong và Hóa mã
Một lễ cầu siêu hoàn chỉnh thì kế tiếp khoa Triệu linh là bốn nội dung liên tục bao gồm: Tắm vong, Sái tịnh, Hóa mã và Khai quang vong. Ở nhiều ngôi chùa, trong khóa lễ cầu siêu cơ bản, người ta thường chỉ tiến hành Tắm vong và Hóa mã. Chùa Phúc Khánh là một trong những nơi như vậy.
Tắm vong
Trước khi đưa các vong vào quy y cửa Phật để làm lễ tụng kinh, người ta thực hiện một nghi lễ đặc biệt là lễ Tắm vong. Ý nghĩa của nghi lễ này là trước khi chính thức vào quy y cửa Phật, các chân linh, vong hồn cần phải “tắm gội” sạch sẽ.
Để tiến hành Tắm vong, nhà chùa chuẩn bị cho mỗi vong linh (trường hợp 49 ngày) ba bát nước gồm: nước hương (nước có rắc tàn hương), nước hoa (nước có rắc cánh hoa hồng) và nước gừng.
Phần Tắm vong thường chỉ có một nhà sư cùng hai thầy cúng tham gia. Tắm vong ở các nơi khác diễn ra tại bàn thờ Tam Bảo vì đây là một phần nội dung của khoa Triệu linh. Nhưng ở chùa Phúc Khánh, Tắm vong được thực hiện tại bàn thờ Vong. Sau khi kết thúc bài văn khấn dành cho lễ Tắm vong, vị sư này sẽ hướng dẫn cho các gia đình mang ba bát nước tắm vong đổ ra vườn. Lễ Tắm vong kết thúc.
Tùy theo thời điểm mà có những bài văn khấn Tắm vong khác nhau. Có bài khấn dành riêng cho dịp 35 ngày hoặc 49 ngày. Lại có bài khấn dành riêng cho những dịp khác. Trong phần Phụ lục của đề tài này có giới thiệu bài khấn được sử dụng tại chùa Phúc Khánh cũng như nhiều ngôi chùa khác mà người viết có điều kiện tìm hiểu.
Hóa mã (còn gọi là Tiến mã)
Đây chỉ là một nội dung nhỏ trong khóa lễ. Người ta quan niệm rằng, sau khi tắm rửa sạch sẽ cho vong linh thì tiến hành hóa mã. Tất cả quần áo, mũ mão, ngựa xe… mà gia chủ chuẩn bị cho người quá cố cùng với 1 bộ quần áo mà phía nhà chùa đã sắp sẵn sẽ được các gia đình mang ra khu vực đốt vàng mã của chùa để hóa, gửi tới vong linh.
Thông thường trong phần Hóa mã ở các chùa khác, các vị tăng sẽ tuyên đọc sớ Trạng mã.
Như vậy, tương ứng với mỗi vong linh sẽ có một tờ sớ Trạng mã. Tại chùa Phúc Khánh, sau khi cử bài khấn Tiến mã , thay vì tuyên đọc đầy đủ, tờ sớ được đính kèm theo bộ quần áo cho vong linh mà nhà chùa đã chuẩn bị. Tất cả được đưa cho gia đình người quá cố để đem đi hóa chung.
Dưới đây là nội dung của lễ Sái tịnh và Khai quang vong mà người viết có dịp được quan sát trực tiếp tại những ngôi chùa khác.
Sái tịnh
Chuẩn bị một chén nước gừng đặt sẵn trên bàn. Người chủ lễ tiến hành múa Sái tịnh: đọc văn sái tịnh, khai chuông mõ, tán hương… sau đó tay cầm chén nước, tay cầm ba nén hương và một cành hoa nhỏ, vừa niệm chú, vừa dùng cành hoa chấm vào chén nước.
Ý nghĩa của lễ Sái tịnh là nhằm tẩy trần cho vong khỏi những thứ không sạch sẽ đeo bám trên mình để có thể lên đàn quy y Tam Bảo.
Khai quang
Khai quang là một nghi lễ khá quan trọng trong phần Triệu linh của lễ Cầu siêu. Mục đích của Khai quang nhằm khai mở lục thức cho vong linh: khai nhãn, khai nhĩ, khai tỵ, khai thiệt, khai thân, khai ý (khai tâm).
Quan niệm về lục thức khởi nguồn từ lục căn.
Lục căn là 6 giác quan của con người để nhận biết sự việc: 1. Nhãn (mắt) - 2. Nhĩ (tai) - 3. Tỵ (mũi) - 4. Thiệt (lưỡi) - 5. Thân (da thịt) - 6. Ý (tư tưởng).
Lục thức được sinh ra từ lục căn, bao gồm:
1. Nhãn thức: cái biết của mắt do nhìn thấy
2. Nhĩ thức: cái biết của tai do sự nghe
3. Tỵ thức: cái biết của mũi do sự ngửi
4. Thiệt: cái biết của lưỡi do sự nếm
5. Thân thức: cái biết của da thịt do đụng chạm
6. Ý thức: cái biết của tư tưởng do trí não.
Người ta quan niệm quần áo của vong linh là quần áo không sạch sẽ của trần gian. Vì thế, vong linh sau khi được tắm rửa sạch sẽ, khai quang làm sáng rõ lục thức thì gia chủ sẽ tiến hành hóa quần áo vàng mã để vong mặc vào, lên đàn dự lễ quy y.
Để tiến hành Khai quang vong, trai chủ một tay cầm chén nước, một tay cầm ba nén hương và cành sái. Bắt đầu lễ, chống tay thử vào chén nước, trống, nhạc đồ hương giống như sái tịnh. Sau đó đặt chén nước xuống, tay cầm hương + khăn mặt và múa (niệm chú và kết ấn).
Cúng Phật
Theo tiến trình của một khóa lễ cầu siêu, khoa Cúng Phật phải diễn ra ngay sau Tiếp linh (hoặc Phát tấu, tùy thuộc vào lễ cầu siêu cơ bản hay lễ cầu siêu hoàn chỉnh). Tuy nhiên, ở chùa Phúc Khánh, khoa cúng này lại đặt sau khoa Tiếp linh. Về hình thức, ý nghĩa của lễ này gần giống với lễ Tiếp linh nhưng có điểm khác nhau cơ bản: nếu như trong lễ Tiếp linh, chư tăng đọc sớ nhờ sứ giả đi tìm vong về quy y cửa Phật, thì ở lễ Cúng Phật, lời sớ là sự thỉnh cầu 5 vị sứ giả mời Đức Phật về dự và làm chứng cho đàn lễ cầu siêu. Bài khấn sử dụng trong khoa Cúng Phật là bài Thỉnh Phật . Sớ sử dụng trong khoa Cúng Phật là sớ Phật âm. Ngoài đọc bản sớ, trong lễ Cúng Phật còn tụng kinh.
Tùy theo quy mô của từng đàn lễ cũng như điều kiện kinh tế của gia đình đứng lên lập đàn lễ kéo dài ngày hay ngắn ngày mà người ta tụng nhiều bộ kinh. Thông thường người ta tụng ba bộ kinh là kinh Pháp hoa, kinh Báo ân và kinh Thủy sám. Đây là kinh pháp nhà Phật để hóa giải cho các vong hồn được gọi về, đồng thời giúp cho các chân linh được sáng trí, sáng lòng thông qua nội dung trong kinh của Đức Phật.
Tại chùa Phúc Khánh, vị tăng chỉ tụng kinh Di Đà, không sử dụng sớ Phật âm trong khoa cúng này.
Lễ vật của khoa Cúng Phật là: 1 mâm cơm chay, xôi, oản, chè. Lễ Cúng Phật diễn ra tại bàn thờ Tam Bảo.
Quy y vong
Quy y vong diễn ra tại bàn thờ Tam Bảo.
Quy y này được gọi là quy y âm. Vong linh khi còn sống có thể đã quy y Tam Bảo - đó gọi là quy y dương. Quy y âm có 3 ý nghĩa: 1. Quy y Phật: vong linh sẽ không phải vào địa ngục; 2. Quy y Pháp: vong linh sẽ không phải làm ngạ quỷ; 3. Quy y Tăng: vong linh sẽ không phải đọa vào cõi súc sinh.
Kết thúc lễ Quy y là cấp điệp cho vong linh. Tờ điệp này do phía nhà chùa chuẩn bị, trong đó ghi tên, ngày sinh, ngày mất của vong linh và trao lại cho gia đình. Theo tìm hiểu của người viết, ở chùa Phúc Khánh không sử dụng tờ điệp cấp này.
Tụng kinh A Di Đà
Sau khi các vong linh đã được quy y, người ta rước vong lên chùa và làm lễ tụng kinh. Kinh được tụng trong nghi lễ này gồm: kinh A Di Đà, kinh Thuỷ sám, kinh Địa Tạng, kinh Lương hoàng sám, kinh Pháp hoa, kinh Báo ân... Ý nghĩa của của việc tụng kinh là tôn vinh công ơn đức Phật; đồng thời, thông qua những lời kinh Phật, thỉnh cầu chư Phật cứu vớt, hóa giải cho các chân linh, vong hồn được siêu thoát - được “nương nhờ cửa Phật” để nhanh chóng đầu thai sinh kiếp người khác.
Khóa lễ cầu siêu tại chùa Phúc Khánh chỉ tụng kinh A Di Đà. Phần này do một vị tăng đảm nhiệm.
Tuyên sớ Biểu âm
Phần Tuyên sớ Biểu âm ở những chùa khác do một vị tăng tiến hành. Nhưng tại chùa Phúc Khánh, sau khi tụng kinh, chỉ còn lại hai hoặc ba thầy cúng tham dự đàn lễ. Vì vậy, phần tuyên sớ do một thầy cúng chịu trách nhiệm.
Khóa lễ cầu siêu hoàn chỉnh còn có hai đàn lễ diễn ra nối tiếp nhau: lễ Khai phương - Phá ngục và lễ Giải oan - Cắt kết. Dưới đây là tóm tắt nội dung của hai đàn lễ đó.
Lễ Phá ngục
Sau lễ Tụng kinh, người ta tiến hành bày đàn tràng Phá ngục (còn gọi là đàn ngục) để giải thoát cho các chân linh, vong hồn. Mở đầu cho Phá ngục là nghi lễ Thỉnh xá, phóng xá để yêu cầu quản ngục xoá tên các chân linh vong hồn đã qua đàn cầu siêu ra khỏi danh sách tại địa ngục.
Lễ Giải oan - Cắt kết
Lễ Giải oan - Cắt kết bao gồm các tiểu nghi lễ như tra tội, định tội được mở để mở đường cho các vong được thoát khỏi tội lỗi, kiếp nạn. Giải oan - Cắt kết là để minh oan, xóa tội cho các chân linh vong hồn, đồng thời cắt đứt các oan nghiệp giúp cho các chân linh vong hồn luân hồi, đi sang một kiếp người khác.
Cúng chúc thực, Cúng thí thực
Chúc thực
Chúc thực là cúng cơm cho vong linh. Có thể cúng cơm chay hoặc cơm mặn, tùy theo sự thỏa thuận giữa nhà chùa và gia đình người quá cố.
Tại chùa Phúc Khánh, ở bàn thờ Vong người ta đặt một mâm cơm chay và một mâm cơm mặn, dùng chung cho tất cả vong linh của các gia đình. Thầy cúng cử bài khấn Chúc thực, không sử dụng sớ Cấp vong như tiến trình cơ bản của khóa lễ cầu siêu .
Thí thực và Phóng sinh (nếu có)
Là sự dâng cúng cơm nước, hoa quả, cho các vong hồn lang thang, cô quạnh… Lễ này ít được tiến hành trong những khóa lễ cầu siêu cơ bản, thường chỉ xuất hiện trong khóa lễ hoàn chỉnh. Chùa Phúc Khánh không tổ chức lễ này cho các gia đình có vong linh gửi lên chùa.
Trong phần này chúng tôi trình bày về tiến trình của một khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa diễn ra tại chùa Phúc Khánh.
Một khóa lễ cầu siêu đòi hỏi phải có sự chuẩn bị khá cầu kì, chi tiết. Tuy nhiên tại chùa Phúc Khánh, nhiều nội dung liên quan đến khóa lễ đã có sự giản lược. Việc tiến hành một lễ cầu siêu chỉ đòi hỏi gia đình có người mất đến chùa đăng kí làm lễ với ban quản lý, nộp tiền (500 ngàn đồng với trường hợp chỉ làm lễ cầu siêu hoặc 500 ngàn đồng và thêm 360 ngàn đồng để làm cả lễ cầu siêu và lễ Tuần).
Phía nhà chùa, công việc chuẩn bị cho lễ cầu siêu do các phật tử chấp tác tại chùa đảm nhiệm. Họ mua sắm hoa quả, đồ mã, sớ, bài vị…; nấu cỗ mặn, cỗ chay, xôi chè; bày biện, sắp xếp đồ lễ lên bàn thờ Tam Bảo, bàn thờ Vong theo vị trí đã quy định từ trước. Các gia đình không phải chuẩn bị thêm lễ vật. Nếu thành tâm, có thể mang đến chùa thêm một ít hoa quả, vàng mã để thắp hương cho vong linh.
Khóa lễ cầu siêu - rước vong tại chùa Phúc Khánh được tổ chức vào lúc 9h - 11h30 sáng chủ nhật hàng tuần.
Nội dung của khóa lễ cầu siêu - rước vong lên chùa bao gồm 8 nội dung: Tiếp linh, Triệu linh, Tắm vong và Hóa mã, Cúng Phật, Quy y vong, Tụng kinh A Di Đà, Tuyên sớ Biểu âm, Chúc thực.
Tham dự khóa lễ cầu siêu là đại diện nhà chùa và thân nhân của người quá cố được đưa rước lên chùa. Do nhiều nguyên nhân, cách họ nhận biết về những nội dung của lễ cầu siêu có nhiều điểm khác nhau. Trong phần tiếp theo, chúng tôi xin đề cập tới một số vấn đề mà chúng tôi rút ra từ quá trình khảo sát bằng phương pháp phỏng vấn được thực hiện tại chùa Phúc Khánh.


Trang trí bàn thờ gia tiên cúng Tết
Chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, vì thế, mỗi độ năm hết, Tết đến công việc này được mọi người chú ý trước tiên.
Thờ phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hiện cho nhu cầu được phát lộ tình cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình.
Giữ bàn thờ sạch bày tỏ lòng hiếu kính
Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió, bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ.
Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.
Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ nhiều ẩn ức tình cảm giữa các thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ không chỉ thể hiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà còn là sự chăm sóc đến cái tôi tâm linh ở mỗi con người.
Không phải đợi lúc năm hết tết đến, nhân dịp giỗ chạp hay vào những ngày sóc vọng, người ta mới dọn dẹp và chăm chút bàn thờ. Tuy nhiên, phải vào những ngày cận Tết, chúng ta mới thấy hết được không khí bận bịu, tất bật của việc dọn dẹp và chuẩn bị sắm sửa đồ thờ. Từ việc đánh sáng lại bộ tư đồng, lau chùi khung ảnh, thay cát bát hương (nhang)... đều thể hiện cho nhu cầu giao hòa, gắn kết mật thiết giữa thế giới hữu tình và thế giới tâm linh thiêng liêng.
Công việc quét tước nhà cửa thường là việc của phụ nữ trong nhà vì nó đòi tính cẩn thận, tỉ mỉ. Song việc bày bàn thờ ngày Tết lại được ưu ái dành cho quý ông, đơn giản vì việc ấy nặng nhọc hơn. Hơn thế, người đàn ông là chủ gia đình, phải đại diện chăm lo nơi cư ngụ của tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính.
Phụ nữ trong nhà thì lo việc bếp núc, nấu nướng và dọn dẹp gian bếp. Đó là cách nhìn từ văn hóa truyền thống xưa kia. Ngày nay, nhất là nơi đô thị, chúng ta không còn biệt rạch ròi việc này như trước. Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ không phân biệt nam nữ, tuổi tác như ở thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi nhà vẫn mời người lớn tuổi nhất họ hay nhất nhà ra khấn và thắp hương cho ông bà tổ tiên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm giao thừa, mừng năm mới, cúng tiễn...
Chu đáo bày biện, lễ cúng
Trong gia đình Việt Nam ngoài việc chọn lựa vị trí trung tâm và cao ráo để đặt bàn thờ, người Việt còn chú ý xem hướng của ngôi nhà và tuổi của gia chủ để thấy nên đặt bàn thờ quay mặt về hướng nào là tốt nhất. Việc dọn dẹp hay bày biện bàn thờ vào ngày thường có thể qua loa, sơ sài vì lý do bận bịu làm ăn, thu vén tiền bạc... Song vào những ngày Tết, công việc này được yêu cầu có sự chu đáo nhất định.
Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ), hai bát hương khác đặt ở bên trái và bên phải tạo nên tư thế tam tài; ở hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng trưng cho mặt trời bên trái và mặt trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối... người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã cho các cụ, một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ở trung tâm bàn thờ, một bình hoa lớn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày thêm bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt.
Hoa để thờ cũng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng giấy bạc (một bạc, một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm dương giao hòa) để có thể dùng được lâu. Đối với hoa tươi, người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết...
Khoảng sáng 30 Tết, việc bày biện bàn thờ Tết phải được hoàn tất. Tuỳ theo điều kiện kinh tế hay văn hóa từng miền mà trên bàn thờ có thêm cặp dưa hấu xanh, gói thuốc lá, cặp bánh chưng hay bánh tét...
Việc thắp sáng cho bàn thờ ngày Tết cũng được bắt đầu từ ngày 30. Có nhà sử dụng loại hương vòng, hay hương que loại lớn, cháy liên tục trong nhiều ngày với nhiều ý nghĩa biểu trưng như các vì tinh tú đang tỏa sáng, sự chăm lo ân cần của con cháu...
Hương khói còn tạo nên một không khí ấm cúng nơi gian thờ, gắn kết tình cảm và ước nguyện hạnh phúc của mọi người trong một gia đình. Hương dùng cho những ngày Tết cũng thường là các loại hương có mùi thơm đặc biệt ví dụ như hương bài, hương trầm, hương nhài... là những loại hương có mùi thơm hết sức đặc trưng cho nhân dân ba miền ở Bắc - Trung - Nam.
Mâm ngũ quả ngày Tết
Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ - hỏa - mộc - kim - thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: Phú (giàu có) - quý (sang trọng) - thọ (sống lâu) - khang (khỏe mạnh) - ninh (bình yên).
Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả. Người Nam bộ có cách đọc chại âm hay đơn tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ tên trái mãng cầu thì gọi đơn tiết hóa là Cầu (mãng cầu: thoả mãn trong sự cầu xin) - Sung (sung: chỉ sự sung túc, sung mãn) - Vừa (đọc chệch âm là dừa: quả dừa) - Đủ (đơn tiết hóa của đu đủ và xài (là cách đọc chệch của âm xoài).
Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật thủ hay nải chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả bưởi, dưa hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của quýt, hồng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường.
Ngày nay, mâm quả trên bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt của những hoa quả ngoại nhập. Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt Nam luôn có thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của dân tộc mình.
Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt nhất, tinh tuý nhất, được dâng bày với những tình cảm hiếu kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà mọi người bày tỏ tình cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn.


Nguyên đán là cái Tết bắt đầu cho một năm mới với hy vọng về mọi sự may mắn, tốt lành và ấm áp tình cảm. Bắt nguồn từ ý nghĩa đó, ông cha ta đã có rất nhiều phong tục trong ngày Tết để duy trì những nét đẹp từ bao đời nay của Tết Nguyên đán.
Rước vong linh ông bà về ăn Tết
Trong quan niệm dân gian, mặc dù ông bà đã mất nhưng linh hồn vẫn còn sống luôn phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Do đó, những dịp lễ Tết, người ta hay mời ông bà về chung vui với gia đình.
Đến đúng giao thừa, người ta thường đặt những thức cúng lên bàn thờ gia tiên, thắp hương tưởng niệm, khấn vái, rước ông bà về nhà cùng con cháu vui xuân. Thức cúng là mâm cơm với các sản vật ngày Tết, và mâm ngũ quả được bày biện gọn gàng, đẹp mắt trên một chiếc đĩa to, chiếm một nơi trang trọng ở bàn thờ.Các ngày tiếp theo, người ta đều cúng cơm cho đến hết Tết, đến khi làm lễ tiễn ông bà (lễ hóa vàng) thì việc thờ cúng gia tiên trong ngày Tết mới coi là đã hoàn tất
t.

Rước vong linh ông bà về ăn Tết là một tục lệ luôn được đặt lên hàng đầu trong dịp Tết nguyên đán
“Tống cựu nghênh tân”
Tục lệ này có nghĩa là bỏ qua tất cả những vận đen, không may của năm cũ để đón năm mới. Chính vì thế, cuối năm nhà nào cũng quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế, ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Trong gia đình dù có chuyện buồn phiền, hàng xóm dù có hiềm khích với nhau nhưng từ phút giao thừa trở đi mọi chuyện được xí xóa hết.
Hái lộc, xông nhà, mừng tuổi, chúc tết
Phong tục hái lộc đầu xuân lấy may, cầu may khi bước sang năm mới. Do v ậy,người ta thường đi hái lộc sau giao thừa hoặc sớm tinh mơ ngày mồng một Tết. Cây lộc được chọn là cây cổ thụ ở đầu làng bên giếng nước. Cành lộc được nâng nui, không được cho ai, vì như vậy sẽ “mất lộc”. Sau khi hái lộc về, cành lộc được treo ở hiên nhà, trước gian giữa hoặc cửa ra vào để trừ ma quỷ và để báo cho mọi người biết: đã có người xuất trình “xin” lộc đất trời.
Mỗi gia đình thường chọn những người được cho là “nhẹ vía”, không có tang và hợp với tuổi gia chủ đến xông nhà. Chính vì thế, vào ngày mùng Một, nếu ai không được gia chủ mời xông nhà thì rất dè dặt, không dám tự ý đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay.
Trong dịp Tết Nguyên đán, sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết hay còn gọi là lì xì. “Lì xì” trong Hán tự nguyên là chữ “lợi thị” (có nghĩa là tiền bạc, lợi lộc). Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho trẻ con và những người thân thích.
Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau nên nhân ngày Tết mọi người đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị.
Biếu quà Tết, lễ Tết, mừng thọ
Phong tục đi lễ Tết ngày Tết rất có ý nghĩa. Tuy nhiên việc biếu quà Tết ở đây được hiểu rất lành mạnh là lễ Tết ông bà tổ tiên, cha mẹ … học trò lễ Tết thầy giáo, bệnh nhân Tết thầy thuốc, hoặc lễ Tết những người có ân nghĩa với gia đình mình. Quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường mà nặng về tình cảm, sự quý trọng nhau.
Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con đều tăng thêm một tuổi, khác với các nước châu Âu thường tính theo ngày sinh. Bởi vậy ngày mồng một Tết là ngày con cháu thường tề tựu đông đủ để chúc thọ ông bà và các bậc cao niên. Tuổi mừng thọ được tính theo tuổi mụ.
Chơi cờ bạc ngày Tết
Trong năm các gia đình luôn cấm đoán con cháu không được cờ bạc, rượu chè Tuy nhiên, trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29, cùng quây quần trông nồi bánh chưng thì được phép chơi vui chơi, kể cả trẻ con, người lớn trong gia đình và hàng xóm… Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.
Ở các miền quê sẽ có thêm nhiều phong tục khác nhau nhưng những tục lệ tốt đẹp trên đây là không thể thiếu trong ngày Tết Nguyên đán. Giữ gìn, phát huy thuần phong mỹ tục trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc cũng là lưu giữ những gì thiêng liêng nhất của hồn Tết Việt.

Sau mấy tuần ở nhà chuẩn bị (nói cho oách zậy thui, thiệt ra chỉ có 2 cái thứ 7, Chủ nhật thui, do mấy ngày khác phải ở Xì Gòn) đến nay cũng xong hết mọi thứ để cúng giỗ Ông Nội và Bà Nội, (Ông mất ngày 23/9, Bà mất ngày 21/9, năm ngoái cùng ngày của Ông, năm nay lấy ngày Bà mất làm giỗ).
Lần nào cúng giỗ cũng zậy, bắt đầu chuẩn bị từ khâu gấp vàng mã. Bình thường chỉ cần gấp độ khoảng 100 thỏi vàng là được, nhưng kỳ này là giỗ trọng (giỗ của Ông, Bà, Cha, Mẹ) nên phải gấp đến 400 thỏi vàng. Gấp tê hết mấy đầu ngón tay.
(Đây là vàng thỏi, theo ‘fin kím hịp’ Hoòng Koong giá mỗi thỏi zậy là 100 lượng đó nha, loại này rất khó gấp, phải cần 800 tấm giấy vàng “toa kim” mới gấp được 400 thỏi vàng như vầy)
Rồi xếp giấy, tiền các loại. Riêng mấy cái này thì làm nhanh thôi, chỉ cần 1 buổi là hoàn tất, kể cả khâu đóng ấn gia tộc. Tổng cộng có 8 loại, bao gồm: tiền xu lẻ (tiền đen), tiền xu (tiền đỏ), Thiên khố, Lục sự minh y, Ngũ hành Vãng sinh, tiền Đô la âm phủ, Giấy Vãng sanh chú và Chuẩn Đề vãng sanh chú (mỗi loại 21 xấp, mỗi xấp 11 tờ, riêng Vãng sanh chú và Chuần đề vãng sanh chú mỗi xấp chỉ có 6 tờ).
(từ ngoài vào trong: tiền đen, tiền đỏ, thiên khố, lục sự, ngũ hành vãng sinh, Đô âm phủ, Vãng sinh chú, Chuẩn Đề chú)
Năm nay nhờ Sư huynh viết dùm Sớ và Điệp nên cũng khỏe (khâu này mà làm thì cũng mất thời gian gớm). Chỉ còn phải viết bài vị thỉnh tọa thôi.
(Sớ cúng Phật)
(Điệp cấp vong)
Xoay Giấy áo tổ tiên.
Còn đây là bàn Hương án thỉnh vong tọa.
Cúng tiên thừa
Hình như theo năm tháng, ở một số người, giỗ không còn quan trọng nữa thì phải - dù là giỗ của Cha và mẹ họ. Hôm nay là lễ Kính Cáo gia Thần, Cáo giỗ Gia tiên, cúng tiếp Linh, vậy mà mấy ông bác ông chú bà cô chẳng có ai đến hết, để một mình thằng cháu là tui lúi cúi lui cui dọn dọn dẹp lau chùi rồi tự mình bày bàn, sắp đặt hương án mà cúng. Nghĩ mà chán.
Oải oài oai. Một ngày mệt, từ 7h sáng đến 5h chiều.
Ngày mai chắc phải làm việc từ 6h sáng.
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư toạ lạc ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, trên khuôn viên rộng 5ha, là di tích quan trọng của khu di tích cố đô Hoa Lư. Đền quay về hướng Đông. Trước mặt đền là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa. Trên núi có lăng mộ vua Đinh. Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc.[1]

Kiến trúc

Đền vua Đinh được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư xưa, theo kiểu kiến trúc "nội công ngoại quốc". Xung quanh khu vực này, các nhà khảo cổ đã đào được một mảng sân gạch có họa tiết hoa sen và đôi phượng vờn nhau. Trên mặt gạch có dòng chữ "Đại Việt Quốc quân thành chuyên" và "Giang tây quân"; chứng tỏ đây là những viên gạch thời Đinh - Lê.

Hồ bán nguyệt - Bình phong

Đền vua Đinh được xây dựng theo kiểu đăng đối trên trục thần đạo. Bắt đầu từ hồ bán nguyệt và kết thúc ở Chính cung. Hồ bán nguyệt là một hồ nước xây dựng theo kiểu kiến trúc cung đình xưa. Trong hồ thả hoa súng.
Sau Minh Đường - Hồ Bán Nguyệt là bức bình phong. Theo thuật phong thủy, bình phong để án ngũ gió độc, những điều chẳng lành. Bình phong được đặt sau minh đường và trước cổng vào, trên trục thàn đạo. Ở giữa bình phong là bông gió với họa tiết kiểu hoa cúc, ý nói lên sự trường tồn.

Ngọ Môn Quan

Ngọ môn quan là cổng ngoài dẫn vào đền. Trên vòm cửa cong là hai con lân vờn mây. Phía trên cổng là hai tầng mái che với tám dao mái cong vút. Cổng ngoài có ba gian lợp ngói, mặt trong cổng ghi bốn chữ "Tiền triều phụng khuyết".

Nghi Môn

Toà thứ hai là Nghi môn (cổng trong) với 3 gian dựng bằng gỗ lim kiến trúc theo 3 hàng chân cột. Bốn góc ngoài của Nghi môn nội có xây bốn trụ cột cao. Qua nghi môn ngoại, rảo bước dọc theo đường thần đạo đến Nghi môn nội. Các họa tiết trang trí của nghi môn nội giống như nghi môn ngoại, ngay cả kiến trúc có ba hành cột cũng giống nhau. Đền thờ có hai lớp cửa vào đền cũng tương tự như hai vòng thành Hoa Lư xưa.

Sân rồng - long sàng

Đi hết chính đạo, qua hai trụ cột lớn là đến sân rồng. Giữa sân rồng có một long sàng bằng đá chung quanh chạm nổi. Hai bên sập rồng có hai con nghê đá chầu, được tạc trên hai tảng đá xanh nguyên khối. Tiến dần vào trong, ở giữa có long sàng bằng đá. Cạnh hông của sập đá tạc đầu rồng. Bề mặt của sập rồng được tạc nổi hình con rồng với dáng vẻ khỏe mạnh và uy dũng. Hai bên long sàng là tượng hai con nghê chầu bằng đá xanh thưộc thế kỷ 17.

Long sàng tượng trưng cho bệ rồng nên được điêu khắc với họa tiết rất đẹp. Hai tây vịn của Long sàng là hai con rồng đang uốn mình trên tầng mây cao. Dáng rồng rất thanh cao với đầu ngẩng cao để bờm bay phất phới, râu dài thả rủ về phía trước. Xung quanh long sàng có cắm cờ tượng trưng cho các đạo quân, có nghê chầu, có ngựa trắng...tất cả tạo ra một không khí của ngày hội.

Bái Đường - chính cung

Từ sân rồng bước lên là Bái đường 5 gian, kiến trúc độc đáo. Phía sau long sàng là đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Cấu trúc đền có hai phần: Bái đường và chính cung. Tòa bái đường để bàn thờ cộng đồng. Trên bàn thờ là nhang án được chạm trổ rất đẹp, thuộc về thế kỷ 17.

Tiếp đến là Thiêu hương, kiến trúc theo kiểu ống muống, nơi thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh là các quan trung thần. Đi hết tòa Thiêu hương vào chính cung 5 gian. Ngai thờ vua Đinh Tiên Hoàng được đặt ở giữa chính cung. Ngai vua được trang trí sơn son thếp vàng rất đẹp. Ngai được đặc trên bệ rồng với tượnng rồng tạc giống như rồng nơi long sàng. Gian giữa thờ tượng vua Đinh Tiên Hoàng được đúc bằng đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên bệ đá có hai con rồng chầu, tạc theo kiểu yên ngựa. Trên bức đại tự có ghi hàng chữ: “Chính thống thủy” với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là người mở nền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: “Cồ Việt Quốc đương Tống khai bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An” (Nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt sánh ngang niên hiệu khai bảo đời nhà Tống - Kinh đô Hoa Lư như kinh đô Tràng An của nhà Hán). Gian bên phải thờ tượng thái tử Hạng Lang và Đinh Toàn đều quay mặt về phía Bắc, là hai con thứ của vua. Gian bên trái thờ tượng Nam Việt Vương Đinh Liễn quay mặt về phía Nam là con trưởng của vua. Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17. Đền vua Đinh cũng là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia ký…

Dấu ấn mỹ thuật

Người cố đô Hoa Lư lập đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng cũng như làng Đông Hồ có vẽ tranh thờ Đinh Tiên Hoàng đều theo cách riêng của mình. Điều khác biệt làm nên sự phức tạp đó chính là mối quan hệ giữa dân gian và bác học được dung hợp và nhuần nhuyễn trong văn hóa làng. Một cái nhìn cận cảnh về văn hóa làng qua bia ký ở hai ngôi đền vua Đinh, vua Lê là việc khảo sát các dữ liệu lịch sử, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng được ghi lại trên 7 chiếc bia đá hiện tồn. Đền Đinh - Lê thuộc xã Trường Yên. Đây là một trong những ngôi đền lớn ở Việt Nam còn sót lại. Trên văn bia, người xưa chỉ gọi là miếu, như “Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu bia ký công đức tịnh minh”. Quy mô kiến trúc hiện nay to lớn hơn nhiều thời kỳ sơ khai ban đầu. Qua các các triều đại, hai ông vua được phong tặng nhiều mỹ hiệu. Vốn ngôi đền có từ thời Lý, sau khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Dân chúng xưa sống bên ngoài thành Hoa Lư nhân cơ đó vào sinh sống trong thành. Rồi trên nền cung điện cũ xây cất lên ngôi đền thờ chung cho cả vua Đinh và vua Lê.

Trong chiếc bia “Tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế miếu công đức bi ký tịnh minh” có ghi năm Bính Ngọ Hoằng Đinh năm thứ 7 (1606) giao cho bản huyện xã Trường Yên hạ chăm lo việc hương hỏa đền vua Lê. Cũng tượng tự như vậy trong chiếc bia ở đền vua Đinh làm năm Chính Hòa thứ 17 nhắc đến việc thờ tự hương hỏa của xã Trường Yên thượng. Đền thờ một ông vua nhưng là sở hữu của một làng cụ thể. Nên khi nhìn vào danh sách công đức người ta hình dung được các vị chức sắc, các gia tộc trong làng xã thời đó. Chiếc bia cuối cùng khắc năm Thiệu Trị thứ 3 ( 1843) cũng thấy rất nhiều tên tuổi các cựu lý trưởng, ông cai, ông xã trưởng và các họ tộc trong làng. Trong danh sách công đức đắp tượng thần bắt đầu bằng đương lý trưởng Nguyễn Thời Lập, tiền xã trưởng Dương Trung Thỏa. Cho nên nhìn vào danh sách các tên tuổi công đức không thấy cá nhân hay gia tộc họ Đinh nào, trong khi đó lại thấy những họ Dương, họ Bùi, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Ngô... Như thế miếu thờ vua Đinh, vua Lê chưa bao giờ là của riêng một dòng họ Đinh, họ Lê nào cả. Vua Đinh - vua Lê ở đây trở thành một thượng đẳng thần không của riêng một dòng họ nào.

Ba chiếc bia thời Hoằng Định là ba chiếc bia đầu tiên ở di tích này đều do vị tiến sỹ đỗ khoa thi Tân Mùi 1571 Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, đương chức Hình bộ thượng thư kiêm Đông các Học sỹ Quốc tử giám Tế tử Nghĩa khê hầu trụ quốc Nguyễn Lễ soạn. Với vị thế của Thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng và Đô đốc Bùi Thời Trung thì việc có một ông tiến sỹ đức cao vọng trọng đứng ra lo việc soạn văn bia mới xứng tầm. Nhưng ngay ở trên những tấm bia này vẫn thấy sự hiện diện của những tên đất tên người của hai làng Trường Yên thượng hạ và các làng xã ở miền quê khác. Chiếc bia thứ tư là bia ở đền vua Đinh khắc năm 1696 cũng là một tiến sỹ họ Nguyễn, từng giữ chức Hàn lâm đã về hưu. Người viết chữ Hán là Trần Đạo tự Truy Lưu hiệu Từ Tế Chân Nhân, trụ trì chùa Kim Cương... Một ông quan đã về hưu, một vị nhân sĩ đã xuất gia soạn và viết ra cho thấy việc trùng tu thời Chính Hòa này là tâm nguyện của dân xã Trường Yên hơn là do sự thôi thúc của vương triều. Chiếc bia cuối cùng thời Thiệu Trị thứ ba thì người soạn là một viên quan có tên Trần Chương soạn, được một ông đồ trong xã có tên là Nguyễn Thì Huệ viết.

Các bia đá ở đền hai vua Đinh Lê sớm thấy sự xuất hiện tên tuổi, quê quán những người thợ. Bia Trùng tu tạo tác thánh tượng Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh minh có ghi tượng làm tại Thạch Thành, Thanh Hóa. Bia Tiền Đinh Tiên Hoàng đế tăng tu điện miếu công đức bi ký ”đời Chính Hòa cho biết người thợ đá tài hoa tên là Lê Nhân Phú quê ở xã An Hoạch, Đông Sơn, Thanh Hóa. Bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu công đức bi ký có ghi lưu lại tên người thợ đá Nguyễn Như Lâm, một người thợ mộc họ Hoàng. Việc lưu lại danh tính của những người thợ đá có lẽ chỉ phụ thuộc vào người viết chứ không phụ thuộc vào người soạn. Qua đó được biết họ tên của những người thợ tài hoa. Những người thợ từ một làng quê này tới làm tượng, đúc chuông xây đền cho một làng khác.

Những dấu ấn văn hóa Hán - Mãn (Trung Hoa) đến từ một địa khí hậu Lạnh-Khô bị khúc xạ trong một môi trường nóng - ẩm sau lũy tre làng ở Hoa Lư (Bắc Bộ -Việt Nam). Nếu như rồng hay kỳ lân ở Trung Hoa thường xuất hiện cùng mây, gió thì ở đây, nó đã bị gắn vào môi trường sông nước. Làng nước như ở đồng bằng Bắc Bộ, trước hết là những ngôi làng ven sông, nhìn đâu cũng thấy ao hồ, đầm phá. Địa văn hóa của mảnh đất Hoa Lư vốn càng như vậy. Con rồng phun nước chứa đựng những ước mong “lạy trời mưa xuống” của các cư dân lúa nước. Thế nên cạnh bên những con rồng rất Trung Hoa là những con cá con tôm tung tăng trong các đám mây. Dễ nhận thấy những nét tương đồng, ảnh hưởng của cách tạo hình ở những bức bệ rồng ở các cung điện đền đài Trung Hoa với các sập rồng ở đền vua Đinh. Nhưng cũng chính ở đây người ta dễ dàng nhận thấy những dấu ấn mỹ thuật của văn hóa Làng - Nước của người Việt.
Nhận xét về tính độc đáo của sập rồng ở đền vua Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trò cho rằng sập rồng đặc biệt đẹp sau những cơn giông mùa Hạ. Mặt sập loang loáng nước, như con rồng đang vẫy đạp để bay lên chí tầng mây. Ở Trung Hoa không có cảnh tượng này. Không phải ở Bắc Kinh, Nam Kinh hay Khúc Phủ không có những cơn giông mùa Hạ, mà cốt yếu ở đây là cảm thức địa văn hóa khác nhau. Các bệ rồng Trung Hoa được đặt ở vị trí nghiêng, dốc theo lối đi nên không đọng được nước mưa. Hai sập đá có chạm hình rồng trên mặt sập tạo hình tuy có khác nhau về phong cách tạo hình và niên đại nhưng đều giống nhau trong cách tạo đường diềm bao bốn bên để không cho nước mưa thoát ra nên hễ có mưa là rồng gặp nước... thỏa ước mong vùng vẫy.
1. Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có thể thấy ở nhiều vùng miền khác nhau, tiêu biểu như ở Ninh Bình có 12 nơi thờ,[2] trong đó có đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đền thung Lau ở động Hoa Lư, Gia Viễn; đền Mỹ Hạ xã Gia Thủy, Nho Quan... Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến, Ý Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy… Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Đặng Xá ở Văn Xá, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý... Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Lạng Sơn có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Triệu Sơn, Đăk Lăk có đình Cao Phong[3] ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột ...

Bên cạch các đền thờ, tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh cũng được xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh tại một số nơi như suối Tiên (quảng trường Đinh Bộ Lĩnh) và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình cũng xây dựng khu quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế.

1. Lễ đầy tháng (Lễ cúng Mụ)

Trong ngày đầy tháng, ngoài việc chuẩn bị món ăn, thức uống dùng để chiêu đãi khách, gia chủ còn chuẩn bị mâm lễ vật cúng kính 12 Mụ bà gồm 12 chén chè, 3 tô chè, 3 đĩa xôi và một mâm cúng kính 3 Đức ông gồm con vịt tréo cánh được luộc chín, 3 chén cháo và 1 tô cháo...

Minh hoạ: Blog Tôm & Tép
Việc tổ chức lễ đầy tháng trước là tạ ơn Mụ bà không chỉ nặn ra đứa trẻ, mà còn phù trợ cho “mẹ tròn con vuông”, sau là để trình với nội - ngoại, họ hàng, lối xóm về đứa cháu sau một tháng chào đời - nhưng ít ai nhìn thấy (cả mẹ và con). Đây như là chứng nhận của xã hội về sự tồn tại của một con người, để được nâng niu, chúc tụng, để cộng đồng có trách nhiệm giúp đỡ, cưu mang, che chở...
12 chén chè cúng 12 Mụ bà gồm:

- Mụ bà Trần Tứ Nương, coi việc sanh đẻ (chú sanh)

- Mụ bà Vạn Tứ Nương, coi việc thai nghén (chuyển sanh)

- Mụ bà Lâm Cửu Nương, coi việc thụ thai (thủ thai)

- Mụ bà Lưu Thất Nương, coi việc nặn hình hài nam, nữ cho đứa bé.

- Mụ bà Lâm Nhất Nương, coi việc chăm sóc bào thai (an thai)

- Mụ bà Lý Đại Nương, coi việc chuyển dạ (chuyển sanh)

- Mụ bà Hứa Đại Nương, coi việc khai hoa nở nhuỵ (hộ sản)

- Mụ bà Cao Tứ Nương, coi việc ở cữ (dưỡng sanh)

- Mụ bà Tăng Ngũ Nương, coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (bảo tống)

- Mụ bà Mã Ngũ Nương, coi việc ẵm bồng con trẻ (tống tử)

- Mụ bà Trúc Ngũ Nương, coi việc giữ trẻ (bảo tử)

- Mụ bà Nguyễn Tam Nương, coi việc chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ.

Ba Đức thầy bao gồm: Thánh sư, tổ sư và tiên sư có chức năng truyền dạy nghề nghiệp (không phải 13 đức thầy).

Sau khi bày lễ vật, một trưởng tộc hoặc người biết thực hành nghi lễ, thắp ba nén hương khấn nguyện: "Hôm nay, ngày (mùng)... tháng... (âl), ngày cháu (nội hay cháu ngoại...) họ, tên... tròn 1 tháng tuổi, gia đình chúng tôi bày mâm lễ vật này, cung thỉnh thập nhị mụ bà và tam đức ông trước về chứng minh nhận lễ, sau tiếp tục phù trợ cho cháu (tên...) mạnh tay, mạnh chân, mau lớn, hiền, ngoan, phù trợ cho gia đình an vui, hạnh phúc".

Sau nghi thức cúng kính là nghi thức khai hoa còn gọi là "bắt miếng". Đứa bé được đặt ngay trên bàn giữa, chủ lễ rót trà thấp hương xin phép bắt miếng. Xong, bồng đứa trẻ một tay, tay kia cầm một nhánh hoa điệp (có thể hoa khác) vừa quơ qua, quơ lại trên miệng cháu bé vừa dạy những lời tốt đẹp như sau:

Mở miệng ra cho có bông, có hoa,

Mở miệng ra cho kẻ thương, người nhớ,

Mở miệng ra cho có bạc, có tiền,

Mở miệng ra cho xóm giềng quý mến...

Tiếp sau là lời chúc mừng và tặng quà hoặc tiền lì xì của khách mời, của dòng họ bà con cho cháu bé và gia đình nhân ngày cháu tròn một tháng tuổi.

2. Lễ thôi nôi (tròn năm)

Lễ thôi nôi, ngoài lễ vật chè - xôi, vịt luộc cúng Mụ bà - Đức ông như trong lễ đầy tháng, còn có heo quay cúng đất đai diên địa, thổ công, thổ chủ. Mâm cúng được bày ngoài sân, đầu hướng ra ngoài, đi kèm với heo quay còn có 5 chén cháo, 1 tô cháo, 1 đĩa lòng lợn, rau sống, nhang, đèn, rượu, trà, hoa quả, trên lưng lợn quay gắn một con dao bén.

Trong nhà, bày 3 mâm cúng gồm mâm cúng Thành hoàng bổn cảnh; mâm cúng cửu huyền thất tổ và mâm cúng ông bà quá vãng (bao nhiêu bàn thờ, bấy nhiêu mâm cúng). Lễ vật là những thức ăn chín phù hợp với tập quán mỗi địa phương. Kế bên (trên bộ ván hoặc bộ vạt) bày 12 chén chè, xôi; con vịt luộc chín với 3 chén cháo và 1 tộ cháo cúng 12 Mụ bà và 3 Đức ông.

Nghi cúng đất đai diên địa, thổ công thổ chủ lời khấn như sau:

"Hôm nay, ngày (mùng)... tháng... (âm lịch), gia đình cháu (nêu họ tên)... bày làm mâm lễ vật, trước cung thỉnh đất đai diên địa, thổ công thổ chủ trước về chứng minh nhận lễ mừng cho cháu (...) tròn một năm tuổi, sau tiếp tục phù trợ cho cháu (tên...) khoẻ mạnh, chóng lớn, ngoan hiền, phù trợ cho gia đình luôn ấm no, hạnh phúc...".

Lời khấn mâm cúng Thành hoàng bổn cảnh; mâm cúng Cửu huyền thất tổ và mâm cúng Ông bà quá vãng nội dung cơ bản giống như lời khấn nghi cúng đất đai diên địa, thổ công thổ chủ, chỉ thay đổi đối tượng được thỉnh mời.

Lời khấn cầu 12 Mụ bà và 3 Đức ông cơ bản giống như lời khấn trong ngày đầy tháng.

Ba tuần rượu và một tuần trà lời khấn không thay đổi (trùng ngôn, trùng ngữ).

Kết thúc ba tuần rượu và một tuần trà là thực hiện nghi thức “thử tài” cháu bé bằng cách bày những vật dụng phù hợp trên bộ ván hoặc trên bộ ván phù hợp với tính cách của nam, hoặc nữ. Sau đó, đặt cháu bé ngồi trước các vật dụng để cháu tự chọn lựa các vật dụng như: gương, lược, viết, tập sách, nắm xôi, tiền, kéo... Vật nào được cháu chọn trước (cầm trước) dân gian tin tưởng đó là sự chọn lựa của cháu về nghề nghiệp tương lai cho mình.

Sau khi kết thúc nghi thức tử tài, khách mời thực hiện nghi thức chúc mừng và lì xì cho cháu bé.

Nghi lễ kết thúc, cuộc tiệc mừng cháu tròn một tuổi cũng bắt đầu.

Nhìn chung, Lễ đầy tháng - lễ thôi nôi là một nghi lễ biểu hiện tính nhân bản của người Việt Nam nói chung, người Bến Tre nói riêng đối với mỗi con người, cho dù con người còn rất non dại.

Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian trong đó có Lễ đầy tháng - lễ thôi nôi một nét đẹp văn hoá truyền thống đang có nguy cơ mai một hoặc biến dạng theo cơ chế thị trường. Nếu không biết giữ gìn và phát huy sẽ làm mất đi nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc và của chính bản thân mình.
Theo Viện Nghiên Cứu Văn Hoá Việt Nam
Thưa chư vị,
Nhân dịp đón Tết Nguyên Đán Tân Mão, xin cung hiến quý vị những bài văn cúng trong dịp Tết, do tôi sưu tầm được. Hôm nay là 26 Tết, tôi đưa sớm các bài này lên để chư vị sắp xếp in ra để dùng, vì không phải nhà nào cũng có máy in.
VĂN KHẤN LỄ GIAO THỪA NGOÀI TRỜI
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy :
- Đức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
- Hoàng Thiên, Hậu Thổ, chư vị Tôn Thần.
- Ngài Cựu Niên Ngụy Vương Hành Khiển; Mộc Tinh chí đức tôn thần, Tiêu Tào phán quan năm Canh Dần.
- Đương niên Trịnh Vương hành khiển, Thạch Tinh chi thần, Liễu Tào phán quan năm Tân Mão.
- Các Ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Long mạch, Táo Quân, chư vị tôn thần.
Nay là phút giao thừa năm Canh Dần sang Tân Mão
Chúng con là.................
Ngụ tại ......................
Phút thiêng giao thừa vừa tới, năm cũ qua đi, đón mừng năm mới, tam dương khai thái, vạn tượng canh tân. Nay Ngài Thái Tuế tôn thần trên vâng lệnh Thượng Đế giám sát vạn dân, dưới bảo hộ sinh linh tảo trừ yêu nghiệt. Quan cũ về triều đế khuyết, lưu phúc lưu ân. Quan mới xuống thay, thể đức hiếu sinh, ban tài tiếp lộc. Nhân buổi tân xuân, tín chủ chúng con thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án. Cúng dâng Phật Thánh, dâng hiến Tôn Thần, đốt nén tâm hương, dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời: Ngài Cựu niên Đương cai, Ngài Tân niên Đương cai Thái Tuế Chí đức Tôn thần, Ngài Bản cảnh Thành Hoàng, Chư vị Đại Vương, Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa, Phúc Đức Chính Thần, các Ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Long mạch Tài Thần, các Bản gia Táo Quân và chư vị Thần Linh cai quản ở trong xứ này. Cúi xin giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho tín chủ: Minh niên khang thái, trú dạ cát tường. Thời thời được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Ghi chú: Ngoài việc đứng trước bàn thờ (ngoài sân) khấn nguyện theo nội dung trên, quý vị sau khi cúng nên hóa bản văn khấn ngay rồi tưới một ít rượu cúng lên để gửi đến Ngài Đương niên hành khiển. Vì khi ấy trên trời đang nhộn nhịp gấp gáp diễn ra các cuộc bàn giao, nên có thể các Ngài không kịp nghe lời tâu bày thỉnh nguyện, nếu quý vị hóa văn bản này tức là đã kịp gửi văn bản thì sau Tết, rảnh rang, các viên thư ký và bộ phận văn thư sẽ trình lên Ngài Đương niên.
Lễ ngoài trời (hoặc trong nhà hướng ra ngoài trời trên lan can, cửa sổ), gồm: Oản quả, bánh kẹo, mứt Tết tùy tâm, bánh chưng một đôi, trầu cau, thuốc lá, nước trà.
Lễ mặn thì dùng: Đĩa xôi, thịt lợn (hoặc gà), 3 chén rượu, 1000 vàng hoa đỏ, sớ điệp (nếu có), tiền vàng.
VĂN KHẤN LỄ GIAO THỪA TRONG NHÀ
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy:
- Đức Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
- Hoàng Thiên, Hậu Thổ chư vị tôn Thần.
- Long Mạch, Táo Quân, chư vị Tôn Thần.
- Các cụ Tổ Tiên nội, ngoại chư vị tiên linh.
Nay phút giao thừa năm Tân Mão,
Chúng con là...........................
Ngụ tại.............................................
Phút giao thừa vừa tới, nay theo vận luật , tống cựu nghênh tân, giờ Tý đầu Xuân, đón mừng Nguyên Đán, tín chủ chúng con thành tâm, sửa biện hương hoa phẩm vật, nghi lễ cung trần, dâng lên trước án, cúng dâng Phật Thánh, dâng hiến Tôn Thần, tiến cúng Tổ Tiên, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con xin kính mời:
Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương, Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa, Phúc Đức Chính Thần, các Ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Long Mạch Tài Thần, các Ngài Bản gia Táo Quân và chư vị Thần Linh cai quản ở trong xứ này. Cúi xin giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật. Con lại kính mời các cụ tiên linh Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỷ muội, nội ngoại tộc chư vị hương linh cúi xin giáng về linh sàng hâm hưởng lễ vật.
Tín chủ lại kính mời các vị vong linh Tiền chủ, Hậu chủ, y thảo phụ mộc ở trong đất này. Nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án chiêm ngưỡng tân xuân, thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho tín chủ: Minh niên khang thái, trú dạ cát tường. Thời thời được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng.
Giãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN THẦN LINH TRONG NHÀ (MÙNG 1)
Nam Mô A Di Đà Phật!(3 lần)
Kính lạy:
- Đức Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Phật Trời , Hoàng Thiên Hậu Thổ.
- Chư vị Tôn Thần.
Hôm nay là ngày mồng 1 tháng Giêng, nhằm ngày Tết Nguyên Đán đầu xuân, giải trừ gió đông lạnh lẽo, hung nghiệt tiêu tan, đón mừng Nguyên Đán xuân thiên, mưa móc thấm nhuần, muôn vật tưng bừng đổi mới. Nơi nơi lễ tiết, chốn chốn tường trình.
Tín chủ con là ................................
Ngụ tại ..............................................
Nhân tiết minh niên sắm sửa hương hoa, cơm canh lễ vật bày ra trước án, dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần. Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng loà, ân đức rộng lớn. Ngôi cao vạn trượng uy nghi, vị chính mười phương biến hiện. Lòng thành vừa khởi, Tôn Đức cảm thông. Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật. Nguyện cho chúng con mọi người hoan hỷ vinh xương, con cháu cát tường khang kiện. Mong ơn Đương Cảnh Thành Hoàng, đội đức Tôn Thần Bản xứ. Hộ trì tín chủ, gia lộc gia ân, xá quá trừ tai. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.

VĂN KHẤN TỔ TIÊN NGÀY MÙNG 1 TẾT
Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính lạy:
- Đức Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật .
- Các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỷ muội, đường thượng tiên linh các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.
Nay theo Tuế luật, Âm Dương vận hành tới tuần Nguyên Đán, mồng Một đầu xuân mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ Tiên, như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo ba xuân. Do đó chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng lên trước án.
Kính mời các cụ Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Bá thúc đệ huynh, Cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội ngoại. Cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sàng, hâm hưởng lễ vật. Phù hộ độ trì cho con cháu năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có điềm lành tiếp ứng. Tín chủ lại mời: các vị vong linh, tiền chủ , hậu chủ ở trong đất này cùng về hâm hưởng.
Giãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
VĂN KHẤN LỄ TẠ NĂM MỚI (MÙNG 3) – HÓA VÀNG
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy:
- Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
- Ngài Đương niên, Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng,
- Các Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch Tôn thần.
- Các Tổ Khảo, Tổ Tỷ, nội ngoại tiên linh.
Hôm nay là ngày mồng Ba tháng Giêng năm Tân Mão
Tín chủ chúng con ..........................
Ngụ tại ..........................................
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cúng dâng trước án. Kính cẩn thưa trình: Tiệc xuân đã mãn, Nguyên Đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngân, lễ tạ Tôn Thần, rước tiễn tiên linh trở về Âm giới. Kính xin: lưu phúc lưu ân, phù hộ độ trì, dương cơ âm mộ, mọi chỗ tốt lành. Cháu con được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng. Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Vài kiểu xếp khăn ăn

Vật liệu
- Khăn vải vuông cạnh 40cm x 40cm (ủi thật thẳng)
- Khăn giấy vuông canh 30cm x 30 cm
- Dây ruban

Kiểu 1: Hoa huệ

+ Gấp tư khăn hình vuông (h.a)
+ Đặt đỉnh nhọn lên trên; gấp 2 mép rời lên phía trên ở mặt trước, 2 mép còn lại gấp lên đỉnh ở mặt sau, thành một hình tam giác cân (h.b)
+ Dùng tay xếp dún cạnh đáy của tam giác, lấy giây ruy ban cột lại (h. c, d)
+ Lận từng cánh hoa ra (h. e).
- Có thể đặt khăn vào ly đựng nước trên bàn tiệc hoặc đặt lên đĩa.

Kiểu 2: Cá vàng
- Gấp đôi khăn theo đường chéo thành hình tam giác (h.a)
- Đặt đường đáy hình tam giác lên trên và sau đó gấp mép khăn xuống 1 đoạn = 1/3 đường cao tam giác (h. b, c).
- Lật sang mặt sau gấp 2 đuôi xuống xuôi theo chiều của đỉnh tam giác (h.d)
- Loại khăn này dùng để đặt nĩa muỗng vào túi nhỏ bên trên, đặt dao phía dưới (h. e)
Kiểu 3: Khăn đặt chén
Dùng khăn giấy để gấp
- Gấp chéo 4 mép khăn vào tâm.
- Lật sang mặt sau gấp tiếp 4 mép vào tâm lần thứ hai.
- Lật sang mặt phải khăn tạo thành 4 ô vuông, mở 4 mép hình vuông đặt chén vào giữa.
Kiểu 4: Hoa sen
Gấp 4 mép khăn vào tâm.
Tiếp tục gấp 4 mép khăn vào giữa ở mặt phải.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 5: Chong chóng
Gấp hai mép khăn vào giữa thành hình chữ nhật.
Chia hình chữ nhật làm 4 gấp 2 mép vào giữa.
Kéo 4 mép thành hình chong chóng.
Lật sang mặt trái gấp 1/4 phía trên vào giữa, và 1/4 phía dưới vào giữa.
Kiểu 6: Thuyền buồm
Giấy hoặc khăn vải.
- Gấp đôi và gấp tư khăn lại (h. 1)
- Gấp tư lớp rồi theo đường chéo của hình vuông, gấp lên phía đỉnh (h. 2)
- Gấp 2 mép bên trái và bên phải vào nhau, theo đường chính giữa (h. 3)
- Gấp 2 đuôi còn thừa xuống mép dưới để tạo hình tam giác (h. 4)
- Kéo 4 lớp bên trong cho ra cánh buốm (h. 5)
Kiểu 7 : Mũ cánh bướm
Dùng khăn giấy hay khăn vải vuông.
- Xếp theo đường chéo của hình vuông (h.1)
- Từ đường chéo gấp xuống 2,5cm (h. 2)
- Lật ngược lại gấp lên cách đỉnh 1 cm và nhét vào lớp bên tay phải gấp mép xếp đôi lên độ 5 ly (h. 5)
- Lật ngược lại, gấp 2 mép nhọn của phải và trái vào độ 7 ly - 1cm. Tiếp tục gấp lớp còn lại cách đỉnh 1,5cm và nhét vào lớp trong gấp đôi mép nữa gấp lên độ 0,5cm (h. 6, H. 7)
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
* Hoa trang trí bàn tiệc liên hoan - chiêu đãi
Kiểu 1
* Vật liệu
- 8 hoa sen
- 5 hoa đồng tiền
- Lá măng
- Bình rộng 20 cm
* Cách thực hiện
- Hoa sen (1) cắm giữa
- Các hoa sen còn lại cắm dạng vòng cung từ trên xuống vòng qua bên phải sang trái.
- Hoa đồng tiến (2) (3) (4) cắm dạng tam giác ở giữa, dưới hoa sen (1).
- Hoa (5) (6) tạo với hoa (2) (3) dạng hình thoi, cắm ở thấp hơn.
- Lá măng cắm chung quanh.
* Vật liệu
- 21 hoa đồng tiền đỏ
- Lá măng
- Bình rộng 15 cm
* Cách thực hiện
- Hoa (1) cắm ở giữa bình
- Hoa (2), hoa (12) cắm dạng vòng cung từ cao đến thấp, từ phải sang trái.
- Hoa (13) (14) (15) cắm dạng tam giác ở giữa.
- Hoa (16) (17) tạo với hoa (4) (5) dạng hình thoi - 4 hoa còn lại cắm giữa bình lệch sang trái dạng hình thoi.
- Lá măng cắm chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 3
* Vật liệu
- 18 hoa cẩm chướng
- Lá thanh tùng
- Bình thấp 20/20
* Cách thực hiện
- Hoa (1) cắm cao ở giữa bình.
- Hoa (2) (3) (4) cắm nghiêng sang phải 30 - 55 - 80 độ.
- Hoa (2') (3') (4') cắm nghiêng sang trái 30 - 55 - 80 độ
- Các hoa còn lại đếp đều xoè quanh dạng tròn.
- Lá thanh tùng cắm chung quanh dưới gốc.
Kiểu 4
* Vật liệu
- 52 hồng đỏ
- Chùm lá măng
- Bình thấp
* Cách thực hiện
- Xếp hoa thành nhiều hàng, 2 mặt, từ cao đến thấp.
- Lá măng cắm chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 5
* Vật liệu
- 13 hoa đồng tiền đỏ
- Chùm lá măng
- Chụp đèn hoa
- Bình thấp tròn miệng rộng 10cm
* Cách thực hiện
- Hoa cắm từ cao xuống thấp chung quanh bình, xen kẽ lá măng

Kiểu 6
* Vật liệu
- 16 hoa đồng tiền
- Lá măng hay lá thanh tùng
- Bình vuông 20/20
* Cách thực hiện
- Hoa (1) cắm giữa, cao 30cm.
- Hoa (2) nghiêng sang phải 85 độ.
- Các hoa còn lại cắm cho đầy dạng bầu trpòn.
- Lá măng cắm chung quanh
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 7
* Vật liệu
- 14 cành lá nhỏ như cùm nụm
- 13 hoa sen
- Bình chữ nhật 15/25
* Cách thực hiện
- Cắm hoa sen (1) (2) (3) (4) thẳng đứng bên trái bình.
- Hoa (5) (6) (7) cắm dạng tam giác dưới gốc.
- Hoa (8) (9) (10) cắm dạng tam giác ở giữa.
- Hoa (11) (12) (13) cắm dài bên phải.
- Lá nhỏ như cùm nụm cắm xen kẽ.

Kiểu 8
* Vật liệu
- 10 hoa sen búp
- 3 hoa sen nở
- 6 cúc trắng
- 1 lá sen
- Bình tròn miệng rộng 25cm
* Cách thực hiện
- 10 cánh hoa sen cắm hình vòng cung bên trái.
- 6 cức trắng cắm hình vòng cung bên trái.
- 3 hoa sen nở cắm tròn ở giữa.
- Lá sen cắm thấp ở bên phải
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 9
* Vật liệu
- 10 hoa đồng tiền cam
- 4 hoa hồng đỏ
- 3 hoa hồng vàng
- 3 hoa hồng trắng
- lá măng
- Bình chụp đèn ren đường kính 25cm
* Cách thực hiện
- 10 hoa đồng tiền cắm quanh miệng bình
- Cắm hoa (1) ở giữa bình trên cao.
- Các hoa hồng còn lại cắm cho đầy, dạng bầu tròn.
- Lá măng cắm chung quanh.

Kiểu 10
* Vật liệu
- 15 hoa sen xếp thành hoa hồng
- Chùm lá măng
- Bình chữ nhật
* Cách thực hiện
- Hoa sen cắm từ cao đến thấp chung quanh bình.
- Lá măng cắm sen kẽ.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
* Cắm hoa dành cho tiệc sinh nhật
Kiểu 1
* Vật liệu
- 14 hoa đồng tiền cam
- 1 Khúc thân cây chuối làm đèn cầy
- 1 cành trầu bà
- Bình tròn đường kính 25cm
* Cách thực hiện
- Lấy phần trắng thân cây chuối cao 60 cm làm đèn cầy, cắm hoa hồng búp làm tim đèn. Hoa (1) (2) (3) cắm cao thấp từ trái sang phải. Hoa (4) (5) ( 6) cắm dạng hình thoi ở giữa bình. Hoa (8) (9) (10) cắm dạng tam giác sát bên phải
- hoa còn lại cắm hình vòng cung, bên phải.
- Cành trầu bà cắm dài từ trái sang phải.

Kiểu 2
* Vật liệu
- 7 Hoa đồng tiền vàng
- 5 nhánh dương xỉ
- 2 ngọn nến giả bằng bẹ chuối
- Bình hình chữ nhật
* Cách thực hiện
- Cắm 2 ngọn nến ở giữa
- Hoa (1) (2) cắm bên trái.
- Hoa (3) (4) (5) (6) cắm dạng hình thoi trước nến.
- Hoa (7) cắm bên phải.
- 2 cành dương xỉ uốn cong cắm bên trái.
- 3 cành dương xỉ còn lại cắm bên phải.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 3
* Vật liệu
- 8 hoa lan vàng
- hoa hoàng anh
- 8 lá thủy tùng
- Bẹ chuối làm đèn
- nơ hồng
- bình thấp rộng 20 cm
* Cách thực hiện
- Đèn cầy gắn nơ cắm thẳng đứng, lệch sang trái.
- Hoa lan cắm từ cao xuống thấp.
- Kim thủy tùng + hoa hoàng anh cắm chung quanh.

Kiểu 4
* Vật liệu
- 1 lõi chuối làm đèn
- 2 hoa hướng dương
- 2 lá dương xỉ
- lá măng
- Binh bầu dục
* Cách thực hiện
- Đèn cầy cắm ở giữa.
- Hoa hướng dương cắm trước đèn cầy.
- 2 lá dương xỉ cắm 2 bên phải và trái.
- Lá măng cắm xung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 5
* Vật liệu
- 7 hoa hồng có lá
- Thân chuối làm đèn
- Hoa hoàng anh
- Nơ xanh
- Bình rông đường kính 25cm
* Cách thực hiện
- Hoa (1) (2) cắm ở giữa từ cao đến thấp.
- Hoa (3) (4) + (4') cắm nghiêng sang trái.
- Hoa (5) (6) cắm nghiêng sang phải từ 20 - 80 độ.
- Đèn cầy cắm thẳng đứng trước khi cắm hoa.
- Hoa hoàng anh cắm chung quanh.

Kiểu 6
* Vật liệu
- 9 Hoa hồng đỏ
- 2 cây nến giả cao 30cm
- Lá thanh tùng.
- Bình tròn miệng rộng 15cm.
* Cách thực hiện
- Nến cắm ở giữa.
- Hoa hồng cắm chung quanh bình (2 mặt) từ cao đến thấp.
- Kim thủy tùng cắm chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 7
* Vật liệu
- 7 hoa hồng
- Đèn cầy giả
- 3 lá dương xỉ
- Lá măng
- Bình thấp rộng 15cm
* Cách thực hiện
- Nến giả cắm ở giữa.
- Hoa (1) cắm trước nến.
- Hoa (2) (3) cắm dưới (1) trước nến.
- 4 hoa còn lại cắm dạng hình thoi ở miệng bình, dưới chân đèn cầy.
- 2 lá dương xỉ cắm cong bên phải.
- 1 lá dương xỉ cắm cong bên trái
- 1 lá măng cắm quanh chân đèn.

Kiểu 8
* Vật liệu
- 5 hoa thược dược
- 1 cây đèn cầy giả
- Nơ hồng
- Lá kim thủy tùng
- Bình rộng 30cm
* Cách thực hiện
- Sử dụng đèn cầy giả cắm giữa bình, có gắn nơ.
- Hoa (1) cắm lệch sang phải, trước đèn.
- Hoa (2 cắm ở giữa, thấp hơn.
- Hoa (3) (4) (5) cắm dạng tam giác gần miệng bình.
- Lá kim thủy tùng cắm xen kẽ chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 9
* Vật liệu
- 10 hoa đồng tiền đỏ
- Đèn cầy giả
- Bẹ chuối tỉa 10 nhánh làm phông
- Hoa hoàng anh
- Bình thấp rộng 25cm
* Cách thực hiện
- Đèn cầy cắm ở giữa
- 10 nhánh bẹ chuối xếp đều làm phông.
- 10 hoa đồng tiền xếp đều từ cao đến thấp.
- Hoa hoàng anh cắm xem kẽ chung quanh.

Kiểu 10
* Vật liệu
- 4 hoa hồng đỏ
- 1 đèn cầy trắng cao 25cm
- Chùm thạch thảo
- Bình tròn miệng rộng 15cm
* Cách thực hiện
- Ngọn nến cắm ở giữa.
- Hoa (1) cắm nghiêng bên trái (hoa búp).
- Hoa (2) (3) (4) cắm dạng tam giác bên phải
- Thạch thảo cắm chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
* Những kiểu cắm bình thấp
Kiểu 1
* Vật liệu
- 6 hoa đồng tiền đỏ
- Vài nhánh rong đá
- Bình thấp, miệng rộng 20cm
* Cách thực hiện
- Cắm hoa (1) (2) (3) thẳng đứng giữa bình.
- Hoa (4) (5) (6) cắm dưới bình hoa từ trái sang phải.
- Rong đá cắm xung quanh.

Kiểu 2
* Vật liệu
- 7 hoa đồng tiền
- 6 lá kim thủy tùng
- Bình thấp 15/15
* Cách thực hiện
- Hoa (1) (2) (3) (4) từ cao đến thấp nghiêng sang phải.
- Hoa (5) (6) (7) cắm dạng tam giác ở gần miệng bình.
- Kim thủy tùng cắm chung quanh.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 3
* Vật liệu
- 3 hoa đồng tiền màu vàng
- Nhánh rong đá
- Vài cọng cỏ may
- Bình thấp rộng 20cm
* Cách thực hiện
- Hoa (1) cắm ở giữa cao 17cm
- Hoa (2) (3) cắm cao thấp về bên trái, gần miệng bình.
- Rong đá cắm chung quanh.
- Cỏ may cắm cao ở giữa.

Kiểu 4
* Vật liệu
- 5 hoa đồng tiền
- 4 cành thủy trúc
- 3 lá đinh lăng ren
- 1 bình chữ nhật
* Cách thực hiện
- Cắm 4 cành thủy trúc theo thứ tự cao thấp bên trái.
- 3 lá linh lăng cắm dưới gốc.
- 5 hoa đồng tiền cắm ở giữa.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống
Kiểu 5

* Vật liệu
- 5 hoa đồng tiền
- 4 lá linh lăng ren
- 1 bình thấp rộng 20cm
* Cách thực hiện
- Cắm hoa (1) (2) bên trái của bình.
- 3 hoa còn lại cắm ở giữa bình, phía dưới hoa (1) (2).
- Lá linh lăng cắm chung quanh.

Kiểu 6
* Vật liệu
- 5 hoa đồng tiền
- 1 sợi dây nơ
- Lá măng
- 2 ống tre làm bình
* Cách thực hiện
- Để 2 ống tre sát vào nhau.
- 5 hoa đồng tiền cắm dạng chữ S từ trái sang phải.
- Lá măng cắm chung quanh.
- Dây nơ thắt bên trái bình.
Khi tình yêu không già nữa
Tình yêu là bốn mùa như đời sống

沒有留言:

張貼留言